USS Saidor (CVE-117)

Tàu sân bay hộ tống USS Saidor (CVE-117)
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Saidor (CVE-117)
Đặt tên theo Saidor, tỉnh Madang, Papua New Guinea
Xưởng đóng tàu Todd Pacific Shipyards, Tacoma, Washington
Đặt lườn 29 tháng 9 năm 1944
Hạ thủy 17 tháng 3 năm 1945
Người đỡ đầu bà Walter F. Boone
Nhập biên chế 4 tháng 9 năm 1945
Xuất biên chế 12 tháng 9 năm 1947
Xếp lớp lại
Xóa đăng bạ 1 tháng 12 năm 1970
Số phận Bán để tháo dỡ, 22 tháng 10 năm 1971
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp tàu sân bay hộ tống Commencement Bay
Kiểu tàu Tàu sân bay hộ tống
Trọng tải choán nước
  • 10.900 tấn Anh (11.100 t) (tiêu chuẩn);
  • 24.100 tấn Anh (24.500 t) (đầy tải)[1]
Chiều dài 557 ft (170 m)
Sườn ngang
  • 75 ft (23 m) (mực nước);
  • 105 ft 2 in (32,05 m) (sàn đáp)
Mớn nước 30 ft 8 in (9,35 m)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước hộp số;
  • 2 × trục;
  • công suất 16.000 shp (12.000 kW)
Tốc độ 19 hải lý trên giờ (22 mph; 35 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa 1.066 sĩ quan và thủy thủ
Vũ khí
Máy bay mang theo 34 × máy bay

USS Saidor (CVE-117) là một tàu sân bay hộ tống lớp Commencement Bay được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ được đặt theo làng Saidor thuộc tỉnh MadangPapua New Guinea, nơi diễn ra cuộc đổ bộ dưới tên gọi Chiến dịch Michaelmas vào năm 1943. Nhập biên chế khi Thế Chiến II đã kết thúc, con tàu chỉ phục vụ trong một thời gian ngắn trước khi xuất biên chế năm 1947. Đang khi trong thành phần dự bị, nó được xếp lại lớp như một tàu sân bay trực thăng CVHE-117 vào năm 1955, rồi như một tàu vận chuyển máy bay AKV-17 vào năm 1959, nhưng không bao giờ hoạt động trở lại, bị rút đăng bạ năm 1970 rồi tháo dỡ một năm sau đó.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Thoạt tiên dự định mang cái tên Saltery Bay, nó được đổi tên thành Saidorvào ngày 5 tháng 6 năm 1944 trước khi được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Todd Pacific ShipyardsTacoma, Washington vào ngày 29 tháng 9 năm 1944. Con tàu được hạ thủy vào ngày 17 tháng 3 năm 1945; được đỡ đầu bởi bà Walter F. Boone, và nhập biên chế vào ngày 4 tháng 9 năm 1945 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại tá Hải quân A. P. Storrs.

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy dọc theo vùng bờ Tây Hoa Kỳ, Saidor đã phục vụ tại Trân Châu Cảng từ ngày 12 tháng 12, 1945 đến ngày 20 tháng 3, 1946. Nó băng qua kênh đào Panama để đi sang vùng bờ Đông và hoạt động tại Norfolk, Virginia từ ngày 16 tháng 4 đến ngày 22 tháng 4, trước khi đi ngược kênh đào để quay trở lại vùng bờ Tây.

Khởi hành từ San Diego, California vào ngày 6 tháng 5, Saidor đi đến đảo san hô Bikini vào ngày 24 tháng 5, nơi nó hoạt động như một phòng thí nghiệm hình ảnh nhằm phục vụ cho Chiến dịch Crossroads, cuộc thử nghiệm hai quả bom nguyên tử vào các ngày 1 tháng 725 tháng 7. Con tàu đã phục vụ tráng rửa phim ảnh, ghi chép lại ảnh hưởng tàn phá khốc liệt của vũ khí nguyên tử trên những mục tiêu được lựa chọn ở những khoảng cách khác nhau. Nó rời vào ngày Bikini 4 tháng 8 để quay trở về San Diego, và ở lại đây cho đến năm 1947, khi con tàu được chuẩn bị cho ngừng hoạt động. Nó được cho xuất biên chế vào ngày 12 tháng 9, 1947 và đưa về Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương, neo đậu tại San Diego.

Đang khi trong thành phần dự bị, Saidor được xếp lại lớp như một tàu sân bay trực thăng với ký hiệu lườn CVHE-117 vào ngày 12 tháng 6, 1955; rồi như một tàu vận chuyển hàng hóa và máy bay mang ký hiệu AKV-17 vào ngày 7 tháng 5, 1959, nhưng không bao giờ hoạt động trở lại. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 12, 1970; và con tàu được bán cho hãng American Ship Dismantlers tại Portland, Oregon vào ngày 22 tháng 10, 1971 để tháo dỡ.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Silverstone 1989

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Bài này có các trích dẫn từ nguồn en:Dictionary of American Naval Fighting Ships thuộc phạm vi công cộng.
  • Silverstone, Paul H. (1989). US Warships of World War 2. Naval Institute Press. ISBN 978-0870217739.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]


Chúng tôi bán
Bài viết liên quan