Unconditionally

"Unconditionally"
Đĩa đơn của Katy Perry
từ album Prism
Phát hànhNgày 16 tháng 10 năm 2013
Thu âmMXM Studios
(Stockholm, Thụy Điển);
Conway Studios
(Hollywood, California)
Thể loại
  • Power pop
  • Rock
Thời lượng3:53
Hãng đĩaCapitol Records
Sáng tác
Sản xuất
Thứ tự đĩa đơn của Katy Perry
"Who You Love"
(2013)
"Unconditionally"
(2013)
"Dark Horse"
(2013)

"Unconditionally" (tạm dịch: "Vô điều kiện") là bài hát nằm trong album phòng thu thứ tư của nữ nghệ sĩ thu âm người Mỹ Katy Perry, Prism (2013). Nó là bài hát thứ 5 trong album, được sáng tác bởi Perry cùng với Dr. Luke, Max Martin, và Cirkut. Bài hát được phát hành như đĩa đơn chính thức thứ hai từ album vào ngày 16 tháng 10 năm 2013. Ngày hôm sau, bài hát được đăng tải trực tuyến trên mạng cùng với phần còn lại của Prism.[1] Nó được phát hành kỹ thuật số vào ngày 22 tháng 10 năm 2013.[2] Lời bài hát diễn tả sự chấp nhận những khuyết điểm, sai sót của người yêu thông qua một tình yêu vô điều kiện. Bài hát nhận được những đánh giá tích cực từ các phê bình âm nhạc.

"Unconditionally" đạt được thành công vừa phải trên toàn cầu, lọt vào top 20 và top 30 của trên bốn mươi quốc gia trên toàn thế giới, bao gồm cả vị trí 14 tại Billboard Hot 100. Nó cũng trở thành bài hát top 10 thứ 13 của Perry tại bảng xếp hạng US Pop Songs.[3] Video âm nhạc chính thức được phát hành vào ngày 19 tháng 11 năm 2013, với những cảnh khiêu vũ của vũ công và Perry hát trong tuyết.

Bối cảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 11 năm 2013, Perry trả lời phỏng vấn của MTV: "Tôi yêu bài hát này bởi vì nó không chỉ là một bản nhạc lãng mạn, một bài hát mang kiểu tình yêu đôi lứa mà còn là tình yêu của người mẹ khi nhìn thấy đứa con mới ra đời, hay tình bạn ... Đó là một tình yêu siêu việt, chứ không chỉ đơn giản là những mối quan hệ". Cô nói rằng bài hát chịu ảnh hưởng và được lấy cảm hứng từ tình yêu thương và sự chia sẻ của con người trong quá trình cô đi từ thiện cho quỹ UNICEF tại Madagascar vào khoảng tháng 4 năm 2013; cô nói: "Đó là thứ cảm hứng tình yêu mà tôi đã thấy được ... chúng tôi đi trong các tàu tuần tiễn lên những ngọn núi trong khoảng từ 2 đến 3 tiếng, đến giữa núi là nơi trường học được xây dựng và chúng tôi vào đó để kiểm tra, và khi lên đến đỉnh núi tôi thấy tất cả những đứa trẻ, và tình cảm của chúng dành cho những người khác". Cô nói: "Đó là một tình yêu vô điều kiện của tất cả lũ trẻ. Một tình yêu thật sự thuần khiết mà không hề bị ảnh hưởng bởi những khuynh hướng khác từ bên ngoài".

Perry là đồng tác giả của "Unconditionally" cùng với Dr. Luke, Max Martin, Cirkut và cả ba người trên cũng đồng thời đảm nhiệm việc sản xuất, phối khí nhạc cụ và lập trình.[4] Bài hát được ghi âm ở phòng thu MXM Studios tại Stockholm, Thụy Điển và phòng thu Conway Studios tại Hollywood, California, và cũng tại đây là nơi sản xuất bài hát và điểu chỉnh giọng hát của Perry. Phần kỹ thuật được đảm nhiệm bởi Peter Carlsson, Clint Gibbs, Sam Holland, và Michael Ilbert vào tháng 3 năm 2013 tại Luke's In The Boo ở Malibu, California và tại phòng thu Secret Garden ở Montecito, California. Carlsson, Gibbs, Holland, và Ilbert được hỗ trợ bởi Eric Eylands, Rachael Findlen, Justin Fox, ANC Cory Bice. Bài hát được pha trộn và phối nhạc bởi Serban Ghenea tại phòng thu MixStar Studios ở Virginia Beach, Virginia, với sự giúp đỡ của kỹ sư âm nhạc John Hanes.

Sáng tác

[sửa | sửa mã nguồn]

"Unconditionally" có độ dài 3:49. Về nhạc lý, nó được viết bằng khóa E và với dãy âm Em-C-G-D.[5] Về thể loại, nó là một bài hát power pop và rock ballad.[6][7] với sự pha trộn một ít nhạc cổ điển và nhạc pop điện tử. Perry nói rằng "Unconditionally" là bài hát yêu thích của cô trong album Prism và theo cô mô tả thì bài hát nói về tình yêu vô điều kiện có thể xuất hiện trong nhiều hình thức như các mối quan hệ giữa mẹ và con hay giữa anh chị em với nhau.[8]

Đánh giá phê bình

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi phát hành, "Unconditionally" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ các nhà phê bình. Elijah Sarkesian từ David Atlanta đã ca ngợi phần điệp khúc của bài hát.[9] Giám đốc điều hành của hãng đĩa Capitol Greg Thompson thì cảm nhận bài hát sẽ trở thành "bài hát cho các đám cưới trong năm 2014".[10] Bradley Stern từ Muumuse thì ca ngợi phần giai điệu của bài hát.[11] Carson Daly của đài phát thanh thì cũng có những nhận xét tích cực cho bài hát khi nói: "Tôi yêu nó, tôi nghĩ đây là điều tốt nhất từ trước đến giờ mà Perry từng làm và có "một cảm giác cấp bách về nó..... thứ âm thanh vượt thời gian".[12]

Jason Lipshutz từ tạp chí Billboardthì coi bài hát là một "bản ballad bản năng" có khả năng truyền đạt chủ đề của mối quan hệ.[13] John Walker từ MTV đã ca ngợi bài hát và cảm nhận bài hát có thể được viết từ quan điểm của Jesus.[14] Kitty Empire của The Guardian thì nhận xét bài hát là "lóng ngóng và vụng về";[15] trong khi đó Helen Brown của The Daily Telegraph thì lời bài hát là "sự tự lực khó hiểu" mặc dù cô nhận xét rằng "tình cảm của Perry trong bài hát là thật sự, cùng với đó là sự sáng suốt của cô và cảm xúc vui vẻ, là những nguồn năng lượng xuyên suốt từ đầu đên cuối".[16]

Melinda Newman từ HitFix đánh giá bài hát bằng điểm B - cô cảm giác thấy giọng hát của Perry đã "bay vút lên" và phát biểu rằng chủ đề bài hát gây được tiếng vang là do sự kết hợp giữa giọng hát của Perry cùng sự phân phối một cách tổng thể các yếu tố.[17] Glenn Gamboa của Newsday thì đánh giá rằng Perry đã phá hỏng bài há, khi cô nói "một cách lịch sự" rằng cần phải phát âm tiêu đề bài hát là "uncondiSHUNally".[18] Trong bài đánh giá của mình cho album Prism, Jon Dolan từ Rolling Stone đã viết bài hát là "sự soi sáng mạnh mẽ của dòng chảy cuồn cuộn đầy chói lọi của châu Âu".[19] Katie Woodard từ Nouse thì gọi bài hát là sự tiếp cận các bản power ballad làm nổi bật lên giọng hát của Perry.[20] Trent Wolfe của The Verge nghĩ rằng "Unconditionally" nằm trong nhóm những bài hát "kiếm lời từ giai điệu bập bùng của đàn 6 dây" thay vì "những nhịp beat và âm điệu".[21] Robert Copsey từ Digital Spy thì tặng bài hát số điểm đánh giá 4 trên 5 sao, và viết rằng Perry có vẻ "nỗ lực" hơn so với những đồng nghiệp của cô.[22]

Diễn biến xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

"Unconditionally" vươn lên được vị trí 14 tại bảng xếp hạng Billboard Hot 100. Bài hát cũng lọt vào được top 10 của cả hai bảng xếp hạng Pop Songs và Adult Pop Songs lần lượt tại vị trí thứ 8 và vị trí thứ 7. Điều này mang lại cho Perry bài hát top 10 thứ 13 cho Perry tại Pop Songs. "Unconditionally" dẫn đầu bảng xếp hạng Hot Dance Club Songs, và giúp Perry đạt kỷ lục nghệ sĩ có quán quân liên tục nhất với 12 quán quân. Tại Billboard Adult Contemporary, bài hát leo từ vị trí 28 lên vị trí 20 trong tuần ngày 18 tháng 1.[23] Vào tháng 11 năm 2013, bài hát đã tiêu thụ được 340.000 bản tại Hoa Kỳ.[24] "Unconditionally" là đĩa đơn đầu tiên của Perry không lọt được vào top 10 của Hot 100 từ sau đĩa đơn năm 2009, "Thinking of You" và là đĩa đơn đầu tiên không lọt vào top 3 từ sau đĩa đơn "Waking Up in Vegas" năm 2009. Mặc dù vậy, "Unconditionally" vẫn tiêu thụ được 1 triệu bản chỉ tính riêng tại Hoa Kỳ vào tháng 3 năm 2014 và nhận chứng nhận Bạch kim.[25]

"Unconditionally" cũng đạt được thành công vừa phải tại khu vực Châu Đại Dương. Bài hát xuất lần đầu ở vị trí 11 tại bảng xếp hạng ARIA Charts và đây cũng là vị trí cao nhất của nó. Bài hát nằm ngoài top 10 trong 2 tuần và có tổng cộng 13 tuần nằm trong bảng xếp hạng, đánh dấu nó là đĩa đơn có số tuần trụ hạng thấp nhất từ trước đến nay của Perry tại Úc. Tuy nhiên nó lại được chứng nhận đĩa Vàng bởi Hiệp hội công nghiệp ghi âm Úc (ARIA).[26] Tại New Zealand, bài hát xuất hiện lần đầu ở vị trí 26 và đây là thứ hạng cao nhất của nó. Không thể leo lên cao hơn, bài hát chỉ giữ chân lại bảng xếp hạng được 10 tuần và cũng đánh dấu nó là đĩa đơn có số tuần trụ hạng thấp nhất từ trước đến nay của Perry tại New Zealand.[27]

Video âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Bối cảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Hai ngày sau khi bài hát được ra mắt, một lyric video trắng đen đã được phát hành trên Vevo và Youtube.[28][29] Video là hình ảnh của nữ diễn viên Janell Shirtcliff và người mẫu đồng tính Erika Linder đang thể hiện tình lãng mạn - vô điều kiện của họ; và video được đạo diễn bởi Aya Tanimura.[30] Joseph Kah đã ca ngợi video và gọi nó là "đơn giản và đầy cảm xúc".[31] Video âm nhạc chính thức cho bài hát được tiến hành ghi hình vào tháng 10 năm 2013 tại London.[32] Video được lấy cảm hứng từ hai bộ phim Dangerous LiaisonsAnna Karenina.[33] Bản xem trước của video được phát hành vào ngày 14 tháng 11 năm 2013.[34] Video âm nhạc chính thức được phát sóng trên MTV vào ngày 16 tháng 11 năm 2013.[35] Ngay ngày sau đó, nó được đăng tải lên Vevo và Youtube.[36][37] Vào ngày 26 tháng 12 năm 2013, hậu trường thực hiện video được đăng tải lên tài khoản Vevo chính thức của Pery.[38]

Nội dung

[sửa | sửa mã nguồn]

Nội dung video là cảnh các vũ công khiêu vũ và Perry hát trong các khung cảnh tuyết rơi hay trong một cung điện đan xen nhau, cũng như cảnh Perry thả tự do cho một con cú. Trong video có rất nhiều cảnh thể hiện tình yêu vô điều kiện chẳng hạn như hình ảnh người mẹ ẵm một đứa bé sơ sinh hay cảnh ôm hôn của những cặp tình nhân. Phần cao trào của video thể hiện ở cảnh chiếc giường ngủ hoàng gia bốc cháy và cảnh va chạm giữa Perry với chiếc xe ô tô, biến nó thành hàng nghìn mảnh vụn nhỏ; vào phân đoạn cuối thì chiếc xe được hồi phục với hàng ngàn bó hoa được gắn phía trên và Perry thì nằm trên nó (hình ảnh chính thức sử dụng cho bìa đĩa đơn).

Brent Bonacorso, đạo diễn cho video, giải thích về video âm nhạc, anh nói: "Khi cô ấy hát bài hát thì cô ấy hát không hề nhẹ nhàng chút nào. Cô ấy nói tình yêu này như một thế lực của tự nhiên, một cơn bão hoành tráng và là một cơn cuồng phong, và đó là một điều chắc chắn tôi muốn nắm bắt được". Anh thêm rằng anh muốn nắm bắt lấy "những điều bí ẩn và tinh tế của thế giới để sống với ít thời gian cho cuộc sống thường ngày và giành nhiều thời gian hơn cho cảm xúc và những ấn tượng". Về phân cảnh lửa bốc cháy trên người của Perry, Bonacorso nói rằng anh và Perry muốn thể hiện ngọn lửa của tình yêu có thể đốt cháy bạn như ngọn lửa của địa ngục, và giống như ngọn lửa ấy đã có sẵn trong bạn và bạn chỉ cần thể hiện nó ra, và ý tưởng đó đã được sử dụng trong video. Bonacorso cũng mô tả cảnh chiếc xe ô tô vỡ vụn là một trong những hình ảnh quan trọng nhất của video, anh nói rằng nó được lấy cảm hứng rằng tình yêu cũng như đụng trúng phải một chiếc ô tô và rằng "thế giới của bạn bỗng chốc thay đổi và nó đẩy bạn ra khỏi sự buồn chán". Trong video âm nhạc, khi chiếc xe bị phá hủy đằng sau Perry thì đồng thời là sự xuất hiện của hàng nghìn bông hoa. Bonacorso giải thích: "Tai nạn xe hơi là sự đại diện cho sự bất ngờ, gần như tính chất bạo lực của tình yêu khi nó thực sự gắn chặt vào bạn và làm thay đổi thế giới của bạn. Và rồi những bông hoa xuất hiện như là đại diện cho những điều vui vẻ và tuyệt vời nhưng vẫn mang tính chất mạnh mẽ của tình yêu khi nó xuất hiện trong cuộc đời bạn". Trong video, Perry xuất hiện ở hai khung cảnh, một mình ở ngoài cánh đồng tuyết và được bao quanh bởi các vũ công trong phòng khiêu vũ hoàng gia; và đạo diễn giải thích chúng mang nhiều yếu tố tâm lý, rằng "mỗi thế giới đại diện cho một phần khác nhau của tiềm thức".

Tiếp nhận

[sửa | sửa mã nguồn]

Trang A Bit of Pop Music gọi video là "tuyệt đẹp" và mang một thông điệp "ấn tượng" và "xúc động".[39] Trang Neon Limeligh thì gọi đây là một video "nổi bật và rực rỡ" và đồng thời cũng khen ngợi phần thông điệp của nó.[40] Markos Papadatos của Digital Journal mô tả video là một sự quyến rũ và nói rằng "Perry nhìn tuyệt đẹp trong một khung hình tuyệt vời". Trang Papadatos thì gọi video là một trong những video tốt nhất của Perry từ trước đến nay.[41]

Biểu diễn trực tiếp

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 22 tháng 10 năm 2013, Perry biểu diễn lần đầu "Unconditionally" cùng những bài hát từ album Prism ở iHeartRadio Theater tại Los Angeles, California.[42] Cô cũng biểu diễn bài hát ngay ngày hôm sau tại buổi hoàn nhạc "We Can Survive", trong đó cô đảm nhiệm vai trò dẫn chương trình cùng với Bonnie McKee, Kacey Musgraves, Sara Bareilles, Ellie Goulding, và bộ đôi Tegan và Sara. Perry biểu diễn "Unconditionally" cùng "Roar" tại chương trình The X-Factor Úc vào ngày 28 tháng 10 năm 2013,[43] và cô cũng trình diễn trực tiếp tại chương trình buổi sáng Sunrise vào ngày kế tiếp.[44] Vào ngày 10 tháng 11 năm 2013, Perry biểu diễn "Unconditionally" tại lễ trao giải MTV Europe Music Awards 2013.[45] Cô cũng biểu diễn bài hát như phần mở đầu lễ trao giải American Music Awards 2013 vào ngày 24 tháng 11 năm 2013, với tạo hình của một geisha.[46] Màn biểu diễn nhận được tranh cãi và cáo buộc chiếm đoạt văn hóa và việc phân biệt chủng tộc[47][48] từ những người Mỹ gốc Á và các phương tiện truyền thông từ Wall Street Journal đến Psychology Today.[49][50][51] Johnny Wujek, nhà tạo mẫu cho Perry giải thích trong một cuộc phỏng vấn rằng cả anh và Perry đều yêu Nhật Bản. Wujek cũng mô tả quá trình anh tìm kiếm bộ kimono đích thực và sau đó cắt chúng theo cảm hứng riêng của mình. Lady Gaga đã lên tiếng bảo vệ cho Perry, cô nói: "Tôi nghĩ mọi người nói chung đã quá nhạy cảm và họ nên để cô ấy yên".[52] Ngày 5 tháng 12 năm 2013, Perry biểu diễn bài hát tại chương trình The X-Factor Ý.[53] Ngày 13 tháng 12 năm 2012, cô biểu diễn bài hát tại chương trình The Voice Đức cùng 4 thí sinh khác.[54] Ngày 14 tháng 12 năm 2013, Perry biểu diễn "Unconditionally" tại lễ trao giải NRJ Music Awards 2014.[55] Cô cũng biểu diễn bài hát trong đêm chung kết chương trình The X-Factor Anh mùa thứ 10 vào ngày 15 tháng 12 năm 2013.[56] Perry biểu diễn bản rút gọn của bài hát vào ngày 20 tháng 12 năm 2013 tại 2 show truyền hình là The Ellen Degeneres ShowAlan Carr. Chatty Man.[57]

Danh sách bài hát

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. "Unconditionally" – 3:48
  2. "Unconditionally" (Instrumental) – 3:48

Bảng xếp hạng và chứng nhận doanh số

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Perry, Katy (ngày 17 tháng 10 năm 2013). “PRISM stream”. Twitter.
  2. ^ Flores, Brandon. “Katy Perry Releases New Single "Unconditionally". Blast Out Your Radio. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2013.
  3. ^ Trust, Gary (ngày 18 tháng 11 năm 2013). “Miley Cyrus, Avicii, Calvin Harris Net New Airplay Chart No. 1s”. Billboard.
  4. ^ Prism (inlay cover) |format= cần |url= (trợ giúp). Capitol Records. 2013. tr. 4. Đã bỏ qua tham số không rõ |artist= (gợi ý |others=) (trợ giúp)
  5. ^ “Prism (Deluxe) by Katy Perry”. iTunes Store. Capitol Records. ngày 22 tháng 10 năm 2013. templatestyles stripmarker trong |work= tại ký tự số 1 (trợ giúp)
  6. ^ “PRISMTHOUGHTS: An Account of The Katy Perry 'Prism' Listening Party in Los Angeles”. MuuMuse. Buzz Media. ngày 13 tháng 9 năm 2013.
  7. ^ Benjamin, Jeff (ngày 16 tháng 10 năm 2013). “Listen: Katy Perry Wails on New Single 'Unconditionally'. Fuse. The Madison Square Garden Company.
  8. ^ “Katy Perry: Hanging with Stevie Nicks & Ariana Grande and Inspiration For 'PRISM'. YouTube. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2013.
  9. ^ Sarkesian, Elijah. “Katy Perry's 'Prism' – Exclusive Album Preview!”. DavidAtlanta. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2013.
  10. ^ Halperin, Shirley (ngày 13 tháng 9 năm 2013). “Katy Perry Premieres 'Prism': 7 Things Learned at Her Invite-Only Listening Party”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2013.
  11. ^ Stern, Bradley. “Listen to Katy Perry's New 'Prism' Single, 'Unconditionally'. Muumuse. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2013.
  12. ^ Daly, Carson. “Carson Daly Premieres Katy Perry's 'Unconditionally' On AMP Radio”. AMP Radio. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2013.
  13. ^ Lipshutz, Jason (ngày 21 tháng 10 năm 2013). “Katy Perry's 'PRISM': Track-By-Track Review”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2014.
  14. ^ Walker, John (ngày 22 tháng 10 năm 2013). “Katy Perry's 'Prism': A Track-By-Track Review..... In Cat GIFs!”. MTV Buzzworthy. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2014.
  15. ^ Empire, Kitty (ngày 20 tháng 10 năm 2013). “Katy Perry: Prism – review”. The Guardian. Guardian Media Group. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2014.
  16. ^ Brown, Helen (ngày 17 tháng 10 năm 2013). “Katy Perry, Prism, review”. The Daily Telegraph. London: Telegraph Media Group. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2014.
  17. ^ Newman, Melinda (ngày 21 tháng 10 năm 2013). “Katy Perry's 'Prism' reflects her heart and soul set to a beat: Review”. HitFix. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2014.
  18. ^ Gamboa, Glenn (ngày 18 tháng 10 năm 2013). 'Prism' review: Katy Perry is all over the place”. Newsday. Cablevision. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2014.
  19. ^ Dolan, Jon (ngày 16 tháng 10 năm 2013). “Katy Perry – Prism”. Rolling Stone. Wenner Media LLC. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2014.
  20. ^ Woodard, Katie (ngày 28 tháng 10 năm 2013). “Album Review: Katy Perry – Prism”. Nouse. University of York Students' Union. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2014.
  21. ^ Wolfe, Trent (ngày 23 tháng 10 năm 2013). “Get real: Katy Perry lets go of the teenage dream with 'Prism'. The Verge. Vox Media. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2014.
  22. ^ Copsey, Robert (ngày 5 tháng 12 năm 2013). “Katy Perry 'Unconditionally' single review: Soaring, effortless ballad”. Hearst Magazines UK. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2014.
  23. ^ “Adult Contemporary”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2013.
  24. ^ “Katy Perry Rides In On A 'Dark Horse,' Her Aptly Titled, Unexpected Hit”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2013.
  25. ^ a b Grein, Paul (ngày 12 tháng 3 năm 2014). “Chart Watch: Thanks Oscar. Love, Idina”. Yahoo Music. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2014.
  26. ^ “Katy Perry - Unconditionally”. australian-charts.com. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2014.
  27. ^ “Katy Perry - Unconditionally”. charts.org.nz. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2014.
  28. ^ Perry, Katy. “Unconditonally (Lyric Video)”. Vevo. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2013.
  29. ^ Perry, Katy. “Unconditonally (Lyric Video)”. YouTube. Vevo. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2013.
  30. ^ Perry, Katy. “The #UNCONDITIONALLY lyric video”. Twitter. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2013.
  31. ^ Kahn, Joseph. “Prefer”. Twitter. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2013.
  32. ^ “Katy Perry Confirms She Filmed 'Unconditionally' Music Video In London Last Week”. Capital FM. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2013.
  33. ^ Vena, Jocelyn. “Was Katy Perry Tempted To Write Any 'Screw You' Anthems On Prism?”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2013.
  34. ^ Perry, Katy (ngày 14 tháng 11 năm 2013). “Unconditionally (Music Video Preview)”. YouTube.
  35. ^ Montgomery, James. “Katy Perry's 'Unconditionally' Video”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2013.
  36. ^ Perry, Katy. “Unconditionally (Official)”. Vevo. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2013.
  37. ^ Perry, Katy. “Katy Perry - Unconditionally (Official)”. YouTube. Vevo. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2013.
  38. ^ Perry, Katy. “Making of the "Unconditionally" Music Video”. YouTube. Vevo. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2013.
  39. ^ “Video Review: Katy Perry - Unconditionally”. A Bit Of Pop Music. Truy cập 15 tháng 10 năm 2015.
  40. ^ “New Video: Katy Perry – Unconditionally”. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2014. Truy cập 15 tháng 10 năm 2015.
  41. ^ “Review: Katy Perry releases glamorous music video for 'Unconditionally' (Includes first-hand account)”. Truy cập 15 tháng 10 năm 2015.
  42. ^ Gundersen, Edna (ngày 22 tháng 10 năm 2013). “Live stream: Katy Perry's 'Prism' album release party”. USA Today. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2013.
  43. ^ Kevipod, Kevin. “Katy Perry Performs "Roar" & "Unconditionally" on "The X Factor Australia". directlyrics.com. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2013.
  44. ^ “Katy Perry shines at Sydney Opera House performance on Sunrise”. Telegraph. ngày 29 tháng 10 năm 2013.
  45. ^ “Katy Perry Gets 'Unconditionally' High For EMA”. MTV. ngày 10 tháng 11 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2014.
  46. ^ Talbott, Chris (ngày 24 tháng 11 năm 2013). “Katy Perry Kicks off AMAs With Beautiful Moment”. ABC News.
  47. ^ Gibson, Megan (ngày 25 tháng 11 năm 2013). “American Music Awards: Katy Perry Performance, Racist or Not?”. TIME. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2013.
  48. ^ Park, Patricia. “Why all the fuss over Katy Perry's geisha performance at the AMAs?”. The Guardian. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2013.
  49. ^ “Music Awards Racism Spot-Check: Katy Perry Edition”. New York magazine.
  50. ^ “Yes, Katy Perry's Performance Was Racist, Here's Why”. Psychology Today.
  51. ^ “Geisha A-Go-Go: Katy Perry's AMAs Performance Stirs Debate”. The Wall Street Journal.
  52. ^ “Lady Gaga Teases 'ARTPOP' Tour, Defends Katy Perry Amidst AMAs Controversy”. radio.com. ngày 25 tháng 11 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2014.
  53. ^ Fowler, Brandi. “Katy Perry Rocks Flower-Covered Sheer Dress at X Factor Italy Show”. E! Online. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2013.
  54. ^ “Katy Perry Performs 'Dark Horse' & 'Unconditionally' on 'The Voice of Germany'. directlyrics.com. ngày 14 tháng 12 năm 2013.
  55. ^ “Katy Perry "Unconditionaly" Live 15th edition”. nrjmusicawards.nrj.fr. ngày 14 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2014.
  56. ^ Kitchener, Shaun (ngày 15 tháng 12 năm 2013). 'Tuneless Car Crash': Katy Perry Bombs On The X Factor Final”. Entertainmentwise. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2014.
  57. ^ Degeneres, Ellen (ngày 20 tháng 12 năm 2013). “Day 12 of 12 Days, Katy Perry”. EllenTV.com. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2014.
  58. ^ “Unconditionally”. Amazon.de. ngày 22 tháng 11 năm 2013.
  59. ^ "Australian-charts.com – Katy Perry – Unconditionally" (bằng tiếng Anh). ARIA Top 50 Singles.
  60. ^ "Austriancharts.at – Katy Perry – Unconditionally" (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40.
  61. ^ "Ultratop.be – Katy Perry – Unconditionally" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop 50.
  62. ^ "Ultratop.be – Katy Perry – Unconditionally" (bằng tiếng Pháp). Ultratop 50.
  63. ^ "8 tháng 7 năm 2009-09-48-53/nielsen/439-25112013-01122013.html 25.11.2013-01.12.2013 - IFPI at bamp-br.org" (bằng tiếng Bulgaria) Airplay Top 5. Bulgarian Association of Music Producers.
  64. ^ a b BPP biên tập (Feb/March 2014). “Billboard Brasil Hot 100 Airplay”. Billboard Brasil (47). Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  65. ^ "Katy Perry Chart History (Canadian Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2013.
  66. ^ “the original”. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2014.Archived from “the original”. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2014. on ngày 11 tháng 12 năm 2013
  67. ^ "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Radio Top 100 Oficiální. IFPI Cộng hòa Séc. Ghi chú: Chọn 08. týden 2014. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2014.
  68. ^ "Lescharts.com – Katy Perry – Unconditionally" (bằng tiếng Pháp). Les classement single.
  69. ^ "Archívum – Slágerlisták – MAHASZ" (bằng tiếng Hungary). Rádiós Top 40 játszási lista. Magyar Hanglemezkiadók Szövetsége. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2014.
  70. ^ "Chart Track: Week 52, 2013" (bằng tiếng Anh). Irish Singles Chart.
  71. ^ "Italiancharts.com – Katy Perry – Unconditionally" (bằng tiếng Anh). Top Digital Download.
  72. ^ “The official lebanese Top 20 - Katy Perry”. The official lebanese Top 20. Truy cập 15 tháng 10 năm 2015.Quản lý CS1: địa điểm (liên kết)
  73. ^ “Top 20 Ingles: Del 9 al 15 de Diciembre del 2013” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Monitor Latino. RadioNotas. ngày 15 tháng 12 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2013.
  74. ^ "Nederlandse Top 40 – Katy Perry" (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40.
  75. ^ "Charts.nz – Katy Perry – Unconditionally" (bằng tiếng Anh). Top 40 Singles.
  76. ^ "Listy bestsellerów, wyróżnienia :: Związek Producentów Audio-Video" (bằng tiếng Ba Lan). Polish Airplay Top 100.
  77. ^ "Official Scottish Singles Sales Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company.
  78. ^ "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Radio Top 100 Oficiálna. IFPI Cộng hòa Séc. Ghi chú: Chọn 04. týden 2014. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2014.
  79. ^ “South African Airplay Top 10”. Mediaguide. Entertainment Logistics Services. ngày 8 tháng 3 năm 2014. Chú thích có tham số trống không rõ: |1= (trợ giúp)
  80. ^ "Spanishcharts.com – Katy Perry – Unconditionally" (bằng tiếng Anh). Canciones Top 50.
  81. ^ "Swedishcharts.com – Katy Perry – Unconditionally" (bằng tiếng Anh). Singles Top 100.
  82. ^ "Swisscharts.com – Katy Perry – Unconditionally" (bằng tiếng Thụy Sĩ). Swiss Singles Chart.
  83. ^ "Official Singles Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company.
  84. ^ "Katy Perry Chart History (Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2013.
  85. ^ "Katy Perry Chart History (Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2013.
  86. ^ "Katy Perry Chart History (Dance Club Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2013.
  87. ^ "Katy Perry Chart History (Adult Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2013.
  88. ^ "Katy Perry Chart History (Adult Contemporary)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2013.
  89. ^ “Pop Rock General”. Record Report. R.R. Digital C.A. ngày 14 tháng 12 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2013.
  90. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2014 Singles” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
  91. ^ “Katy Perry "Unconditionally". IFPI. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2014.
  92. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Ý – Katy Perry – Unconditionally” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Chọn "2014" ở menu thả xuống "Anno". Chọn "Unconditionally" ở mục "Filtra". Chọn "Singoli" dưới "Sezione".
  93. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Hoa Kỳ – Katy Perry – Unconditional” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Làm việc tại cơ quan ngoại giao thì thế nào?
Làm việc tại cơ quan ngoại giao thì thế nào?
Bạn được tìm hiểu một nền văn hóa khác và như mình nghĩ hiện tại là mình đang ở trong nền văn hóa đó luôn khi làm việc chung với những người nước ngoài này
Võ thuật tổng hợp (MMA): Lịch sử và Nguồn Gốc
Võ thuật tổng hợp (MMA): Lịch sử và Nguồn Gốc
Những ngôi sao điện ảnh như Bruce Lee (Lý Tiểu Long) là người đưa võ thuật đến gần hơn với công chúng
Nhân vật Aoi Todo trong Jujutsu Kaisen
Nhân vật Aoi Todo trong Jujutsu Kaisen
Aoi Todo là một thanh niên cao lớn, có chiều cao tương đương với Satoru Gojo. Anh ta có thân hình vạm vỡ, vạm vỡ và làn da tương đối rám nắng
Yelan: Nên roll hay không nên
Yelan: Nên roll hay không nên
Sau một khoảng thời gian dài chờ đợi, cuối cùng bà dì mọng nước của chúng ta đã cập bến.