Văn Lê | |
---|---|
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Tên khai sinh | Lê Chí Thụy |
Ngày sinh | 2 tháng 3, 1949 |
Nơi sinh | Gia Viễn, Ninh Bình |
Mất | |
Ngày mất | 6 tháng 9, 2020 | (71 tuổi)
Nơi mất | Thành phố Hồ Chí Minh |
Quốc tịch | Việt Nam |
Nghề nghiệp | Nhà văn; Đạo diễn; Biên kịch |
Danh hiệu | Nghệ sĩ ưu tú |
Sự nghiệp điện ảnh | |
Vai trò | Biên kịch (1984 - 2010) Đạo diễn (1992 - 2004) |
Giai đoạn sáng tác | 1985 - 2010 |
Năm hoạt động | 1982 - 2010 |
Thể loại | Phim tài liệu |
Quản lý | Hãng phim Giải Phóng |
Giải thưởng | |
Liên hoan phim Việt Nam Biên kịch xuất sắc - phim tài liệu (1985, 1993, 1996) Đạo diễn xuất sắc - phim tài liệu (2001) | |
Lê Chí Thuỵ (nghệ danh: Văn Lê, sinh ngày 02 tháng 03 năm 1949, mất ngày 6 tháng 09 năm 2020), ông là nhà văn, nhà biên kịch, đạo diễn phim tài liệu, Nghệ sĩ Ưu tú có tiếng ở Việt Nam.
Lê Chí Thuỵ sinh ngày 02 tháng 03 năm 1949 tại Gia Viễn, Ninh Bình và mất ngày 6 tháng 09 năm 2020 tại thành phố Hồ Chí Minh.[1]
Ông nhập ngũ vào tháng 9 năm 1966, tháng 9 năm 1967 phục vụ tại Cục Chính trị thuộc Bộ Chỉ huy Miền. Tháng 10 năm 1974, phóng viên tạp chí Văn Nghệ Quân Giải Phóng; tháng 11,1976, biên tập viên tuần báo Văn Nghệ Giải Phóng và tuần báo Văn Nghệ, Hội Nhà Văn Việt Nam. Tháng 12 năm 1977 tái ngũ, phóng viên tại chiến trường B2, Mặt trận 479 tại Campuchia.[2]
Ông hoạt động văn chương tại tạp chí Văn Nghệ Quân Giải Phóng, rồi có thời gian làm tại tuần báo Văn Nghệ thuộc Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1982, ông về công tác tại Hãng phim Giải Phóng cho tới khi nghỉ hưu.
Ông nổi tiếng khi là tác giả kịch bản phim truyện “Long Thành cầm giả ca” (Giải nhất về kịch bản của Cục Điện ảnh – Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch). Bộ phim từng được nhận Giải Nhất Cánh Diều Vàng của Hội Điện ảnh (2012)[3].
Trong sự nghiệp của mình, ông nổi bật trong mảng viết kịch bản phim và cả đạo diễn phim, được phong danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú, là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Điện ảnh Việt Nam.
Ông cũng từng là Ủy viên Ban Chấp hành, Phó Chủ tịch Hội đồng Thơ – Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh các khoá IV, V, VI[1].
Thơ ca và văn chương trong tác phẩm của Văn Lê phần lớn xoay quanh thân phận con người trong chiến tranh như một cách giải tỏa ẩn ức, bức bối của chính mình. Trong đó nhiều tác phẩm văn chương của ông đã để lại những ấn tượng sâu đậm cho độc giả và gặt hái không ít giải thưởng[4].
Ông được tặng thưởng nhiều bằng khen và giải thưởng lớn của Hội đồng văn học chiến tranh cách mạng; Giải thưởng Văn học Bộ Quốc phòng; Giải thưởng Bông Sen Vàng và Cánh Diều Vàng;...[3]
Ông cũng đạt Giải A cuộc thi thơ Tuần báo Văn nghệ (1975-1976) và Giải B thơ tạp chí Văn nghệ quân đội 1984.
Sau đó, ông giành Giải A về thơ của Hội đồng văn học chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang năm 1994. Ông còn được tặng thưởng văn học của Bộ quốc phòng 1994- Giải thưởng Văn học Bộ Quốc phòng 1999.
Đồng thời, trong lĩnh vực điện ảnh, Văn Lê nhận được các giải thưởng như 03 lần đạt giải thưởng Kịch bản phim Tài liệu xuất sắc nhất, 01 giải thưởng Đạo diễn xuất sắc nhất, 01 giải Bông Sen Vàng, 05 giải Bông Sen Bạc, 02 giải Cánh Diều Vàng. 01 giải Galaxy của truyền hình Nhật Bản và nhiều giải thưởng cao về phim tài liệu của Hội Điện ảnh Việt Nam. Ông là tác giả kịch bản phim truyện Long Thành cầm giả ca đạt Giải nhất về kịch bản của Cục Điện ảnh – Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch. Bộ phim được nhận Giải Nhất Cánh Diều Vàng của Hội Điện ảnh năm 2012[1].