Từ định danh rainfordi được đặt theo tên của Edward Henry Rainford (1853 – 1938), một người trồng nho kiêm nhà tự nhiên học nghiệp dư làm việc tại Sở Nông nghiệp Queensland, người mà Bảo tàng Úc đã vì đã thu thập nhiều mẫu cá đặc biệt mà trước đây chưa được biết đến từ vùng biển của Úc, bao gồm cả loài cá này.[3]
C. rainfordi có chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận là 15 cm. Loài này có màu vàng với hai dải xám viền cam trên thân. Đầu ánh màu xám bạc, có một sọc màu nâu cam viền đen từ gáy băng dọc qua mắt; một sọc cam ở phía sau băng dọc qua gốc vây ngực, và giữa hai sọc có một sọc mờ hơn màu vàng cam. Có một đốm đen ở cuống đuôi, nửa sau của vây đuôi trong suốt. Vây ngực trong suốt, các vây còn lại có màu vàng.[6]
Số gai ở vây lưng: 11; Số tia vây ở vây lưng: 20–22; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 17–19; Số tia vây ở vây ngực: 14–15; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 37–43.[7]
^Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Chaetodon rainfordi trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
^Pratchett, M. S.; Wilson, S. K.; Baird, A. H. (2006). “Declines in the abundance of Chaetodon butterflyfishes following extensive coral depletion”. Journal of Fish Biology. 69 (5): 1269–1280. doi:10.1111/j.1095-8649.2006.01161.x. ISSN0022-1112.
^Hobbs, J-P.A.; van Herwerden, L.; Pratchett, M. S. & Allen, G. R. (2013). “Hybridisation Among Butterflyfishes”(PDF). Trong Pratchett, M. S.; Berumen, M. L. & Kapoor, B. (biên tập). Biology of Butterflyfishes. Boca Raton, Florida: CRC Press. tr. 48–69.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết) Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)