USS Perch (SS-176)

Tàu ngầm USS Perch (SS-176)
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Perch
Đặt tên theo loài cá perca [1][2]
Xưởng đóng tàu Electric Boat Company, Groton, Connecticut[3]
Đặt lườn 25 tháng 2, 1935 [3]
Hạ thủy 9 tháng 5, 1936 [3]
Người đỡ đầu bà Helen Lorena Withers
Nhập biên chế 19 tháng 11, 1936 [3]
Xóa đăng bạ 24 tháng 6, 1942 [3]
Danh hiệu và phong tặng 1 × Ngôi sao Chiến trận
Số phận
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu lớp Porpoise Kiểu P-5 [4]
Kiểu tàu tàu ngầm Diesel-điện
Trọng tải choán nước
  • 1.350 tấn Anh (1.370 t) (mặt nước) [5]
  • 1.997 tấn Anh (2.029 t) (lặn) [5]
Chiều dài
  • 298 ft (91 m) (mực nước) [6]
  • 300 ft 6 in (91,59 m) (chung) [6]
Sườn ngang 26 ft (7,9 m) [5]
Mớn nước 15 ft (4,6 m) [6]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 11.000 hải lý (20.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) [5]
  • 21.000 hải lý (39.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) khi chứa dầu FO trong thùng dằn [5]
Tầm hoạt động
  • 10 giờ khi lặn ở tốc độ 5 kn (5,8 mph; 9,3 km/h)
  • 36 giờ ở tốc độ tối thiểu [5]
Độ sâu thử nghiệm 250 ft (80 m) [5]
Sức chứa 92.801 gal Mỹ (351.290 l) dầu FO [10]
Thủy thủ đoàn tối đa
  • 5 sĩ quan, 45 thủy thủ (thời bình) [5]
  • 8 sĩ quan, 65 thủy thủ (thời chiến)[10]
Vũ khí

USS Perch (SS-176) là một tàu ngầm lớp Porpoise được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa thập niên 1930. Nó là chiếc tàu ngầm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên loài cá perca.[1][2] Nó đã phục vụ trong giai đoạn mở màn của Chiến tranh Thế giới thứ hai, bị hư hại nặng bởi hỏa lực hải pháo và mìn sâu của tàu khu trục Nhật Bản tại biển Java, và bị thủy thủ đoàn tự đánh chìm vào ngày 3 tháng 3, 1942. Perch được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Lớp tàu ngầm Porpoise Kiểu P-5 có thiết kế được dựa trên Kiểu P-3 do hãng Electric Boat phát triển, vốn được Hải quân Hoa Kỳ đánh giá là tốt hơn so với Kiểu P-1 do Xưởng hải quân Portsmouth phát triển. Chúng có cấu trúc vỏ kép một phần với hai đầu là vỏ đơn, một phiên bản hoàn thiện hơn của chiếc USS Dolphin (SS-169). Những chiếc được đóng bởi Electric Boat là những tàu ngầm Hoa Kỳ đầu tiên được chế tạo áp dụng kỹ thuật hàn cho toàn bộ cấu trúc con tàu, vốn sẽ áp dụng cho mọi lớp tàu ngầm sau này.

Perch dài khoảng 300 foot (91 m) và trọng lượng choán nước khi lặn khoảng 1.998 tấn Anh (2.030 t), với một cấu trúc thượng tầng tháp chỉ huy lớn và cồng kềnh. Tốc độ tối đa chỉ đạt khoảng 18 hải lý trên giờ (33 km/h) để duy trì độ bền cho động cơ, nhưng một cải tiến nhằm chứa dầu FO trong các thùng dằn chính đã giúp tăng gần gấp đôi tầm xa hoạt động, giúp chúng có thể hoạt động tuần tra đến tận các đảo chính quốc Nhật Bản.[11]

Vũ khí trang bị chính ban đầu chỉ có sáu ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm bốn ống trước mũi và hai ống phía đuôi, cùng một hải pháo 3 inch/50 caliber trên boong tàu và hai súng máy M1919 Browning .30-caliber (7,62 mm).[12][13]

Perch được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Electric Boat CompanyGroton, Connecticut vào ngày 25 tháng 2, 1935. Nó được hạ thủy vào ngày 9 tháng 5, 1936, được đỡ đầu bởi bà Helen Lorena Withers, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 11, 1936 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân G. C. Crawford.[1][2][14]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

1937 - 1941

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại vùng biển ngoài khơi New England, Perch khởi hành băng qua kênh đào Panama và đi đến San Diego, California vào tháng 11, 1937 để gia nhập Hạm đội Thái Bình Dương. Nó hoạt động từ căn cứ này trong thành phần Hải đội Tàu ngầm 6 và tham gia các cuộc tập trận hạm đội, cũng như tham gia một lượt khảo sát quần đảo Aleut vào tháng 2, 1938. Vào mùa Xuân năm 1939, nó tham gia cùng hạm đội trong một chuyến đi sang vùng bờ Đông Hoa Kỳ.[1]

Đến tháng 10, 1939, Perch được điều động sang Manila, Philippines, và đảm trách vai trò soái hạm một đội tàu ngầm. Nó thực hiện một chuyến đi vào mùa Hè năm 1940 dọc theo bờ biển Trung Quốc đến Thượng HảiThanh Đảo. Vào đầu tháng 12, 1941, nó hộ tống hai tàu vận tải xuất phát từ Thượng Hải để vận chuyển binh lính Thủy quân Lục chiến từ Thượng Hải đến Manila.[1]

Thế chiến II

[sửa | sửa mã nguồn]

Khi Hải quân Đế quốc Nhật Bản bất ngờ tấn công căn cứ Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12, 1941 khiến chiến tranh bùng nổ tại Mặt trận Thái Bình Dương, Perch đang được bảo trì tại Xưởng hải quân Cavite. Nó đã kịp thời rút lui ra khỏi căn cứ vào ngày 10 tháng 12 và chứng kiến đợt ném bom phá hủy gần như hoàn toàn căn cứ này. Đêm đó, nó băng qua các bãi thủy lôi tại Corregidor để tuần tra tại vùng biển giữa LuzonĐài Loan, nhưng không bắt gặp mục tiêu nào. Con tàu chuyển sang hoạt động ngoài khơi Hong Kong, và vào đêm 25 tháng 12 đã phóng một loạt bốn quả ngư lôi nhắm vào một tàu buôn lớn, nhưng tất cả đều bị trượt. Vài ngày sau đó, nó lại phóng ngư lôi tấn công một tàu buôn, có thể là chiếc SS Nojima Maru, nhưng các tàu hộ tống đã ngăn trở chiếc tàu ngầm xác định kết quả.[1]

Sau khi đi đến Darwin, Australia để sửa chữa và tái trang bị, Perch thực hiện chuyến tuần tra tiếp theo đến Kendari, Celebes (nay là Sulawesi), nơi nó trinh sát cảng này trong một tuần lễ và tìm cách xâm nhập lối ra vào cảng để tấn công, nhưng không thành công. Nó di chuyển xuống phía Nam dọc bờ biển phía Đông Celebes, và đang khi tấn công ban đêm nhắm vào một tàu buôn lớn, đạn pháo bắn trả của đối phương đã gây hư hại sàn tàu phía trước và ăn-ten vô tuyến khiến tạm thời mất liên lạc vô tuyến. Thủy thủ đoàn đã nỗ lực sửa chữa trong khi còn tàu hướng sang khu vực biển Java.[1]

Tối ngày 1 tháng 3, 1942, Perch trồi lên mặt nước tại vị trí 30 mi (48 km) về phía Tây Bắc Soerabaja (nay là Surabaya), Java để tấn công một đoàn tàu vận tải Nhật Bản đang cho đổ bộ lực lượng lên phía Tây Soerabaja. Các tàu khu trục AmatsukazeHatsukaze đã phát hiện và tấn công nó bằng mìn sâu, buộc Perch phải ẩn nấp dưới đáy biển ở độ sâu 135 ft (41 m). Thêm nhiều quả mìn sâu được thả xuống khiến nó bị hư hại đáng kể, hỏng động cơ bên mạn phải và ngập nước nhiều ngăn suốt con tàu. Khi nó hoàn tất sửa chữa và trồi lên mặt nước lúc 02 giờ 00, nó tiếp tục bị đối phương tấn công; nhưng dầu và hơi thoát ra từ các thùng dằn bị hư hại khiến đối phương tin rằng đã tiêu diệt được chiếc tàu ngầm nên bỏ đi.[14][1]

Sau khi sửa chữa tạm thời, đến sáng sớm ngày 3 tháng 3, Perch tiến hành lặn thử nghiệm nhưng thất bại, và may mắn nổi trở lại để tiếp tục sửa chữa. Tuy nhiên, hai tàu tuần dương và ba tàu khu trục đối phương xuất hiện và nả pháo tấn công.[15] Hạm trưởng buộc phải ra lệnh bỏ tàu và đánh đắm Perch.[14] Tên nó được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 24 tháng 6, 1942.[1][2] Toàn bộ năm sĩ quan và 54 thủy thủ đã bị tàu khu trục Ushio bắt làm tù binh chiến tranh.[14] Ngoại trừ sáu người qua đời do suy dinh dưỡng trong các trại tù binh Nhật Bản, những người khác đã sống sót và quay trở về Hoa Kỳ sau chiến tranh.[1]

Khám phá xác tàu đắm

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 23 tháng 11, 2006, đang khi tìm kiếm xác tàu đắm của tàu tuần dương hạng nặng HMS Exeter về phía Tây Bắc đảo Bawean trong biển Java, một đội thợ lặn quốc tế bên trên chiếc MV Empress đã tình cờ tìm thấy xác tàu đắm của USS Perch.[14][16][17] Nhóm thám hiểm hy vọng tìm thấy xác chiếc Exeter vốn bị đắm tại cùng khu vực này vào ngày 1 tháng 3, 1942.[18] Xác tàu đắm của Perch đã bị trục vớt trái phép trong khoảng từ năm 2006 đến năm 2016 và hiện không còn tồn tại.[19] Không giống như những con tàu Hà LanAnh Quốc lân cận, Perch không được xem là một nghĩa trang chiến tranh, vì nó bị thủy thủ đoàn tự đánh đắm mà không có tổn thất nhân mạng.

Phần thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Perch được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][2]

Bronze star
Dãi băng Hoạt động Tác chiến
Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương
với 1 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g h i j k Naval Historical Center. Perch I (SS-176). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2022.
  2. ^ a b c d e Yarnall, Paul R. “Perch (SS-176)”. NavSource.org. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2022.
  3. ^ a b c d e Friedman 1995, tr. 285–304
  4. ^ a b c d Bauer & Roberts 1991, tr. 268-269
  5. ^ a b c d e f g h i j k Friedman 1995, tr. 305-311
  6. ^ a b c d e Lenton 1973, tr. 45
  7. ^ a b c Alden 1979, tr. 210
  8. ^ Friedman 1995, tr. 261-263
  9. ^ a b Alden 1979, tr. 211
  10. ^ a b Alden 1979, tr. 62
  11. ^ Friedman 1995, tr. 310
  12. ^ Silverstone 1965, tr. 190
  13. ^ Gardiner & Chesneau 1980, tr. 143
  14. ^ a b c d e Helgason, Guðmundur. “Perch (i) (SS-176)”. uboat.net. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2022.
  15. ^ Blair 2001, tr. 188
  16. ^ “Kevin Denlay - Shipwreck Discoveries and SCUBA Diver”. Pacific Wrecks. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2022.
  17. ^ Denlay, Kevin. “On Eternal Patrol - the Unexpected Discovery of the USS Perch SS-176”. Advanced Diver Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2022.
  18. ^ Kakesako, Gregg K. (21 tháng 1 năm 2007). “Sunken WWII sub found by accident near Java”. Honolulu Star-Bulletin. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2022.
  19. ^ All About History Team (23 tháng 11 năm 2016). “Java Sea Shipwrecks of World War 2: One of the men who found them reflects on their loss”. History of War. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2022.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]