Mặt trận Thái Bình Dương là một trong bốn chiến trường chính của chiến tranh Thái Bình Dương trong chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra giữa một bên là Đế quốc Nhật Bản chống lại bên kia là các lực lượng Hoa Kỳ, Khối Thịnh vượng chung Anh, Hà Lan và Pháp.
Mặt trận này trải rộng trên hầu hết diện tích Thái Bình Dương và các đảo của nó, ngoại trừ Philippines, Úc, Đông Ấn thuộc Hà Lan, lãnh thổ New Guinea (bao gồm cả quần đảo Bismarck) và phần phía tây quần đảo Solomon (những vùng này thuộc mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương). Mặt trận Thái Bình Dương cũng không bao gồm các khu vực Trung Quốc và đất liền Đông Nam Á. Cái tên Mặt trận Thái Bình Dương bắt đầu có từ ngày 30 tháng 3 năm 1942[1] lấy theo Bộ tư lệnh của phe Đồng Minh, và thường được gọi đơn giản là "Khu vực Thái Bình Dương".[2]
Hạm đội Liên hợp Nhật do Đô đốc Isoroku Yamamoto chỉ huy cho đến khi ông bị giết trong cuộc tấn công của máy bay tiêm kích Hoa Kỳ tháng 4 năm 1943.[3] Kế nhiệm Yamamoto là Đô đốc Mineichi Koga (1943–1944)[3] và Đô đốc Soemu Toyoda (1944–1945).[4]
Đô đốc, sau đó là Thủy sư Đô đốc Chester W. Nimitz chỉ huy phần lớn lực lượng hải quân hùng mạnh của Đồng Minh tại Thái Bình Dương trong giai đoạn 1941–1945. Bộ tư lệnh Khu vực Thái Bình Dương (POA) được thành lập tháng 3 năm 1942. POA được chia thành các khu vực Bắc, Trung và Nam Thái Bình Dương, với các viên tư lệnh dưới quyền.[5] Nimitz nắm quyền chỉ huy trực tiếp tại Khu vực Trung Thái Bình Dương (CENPAC).
<ref>
không hợp lệ: tên “p&n717” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác