Amnesiac

Amnesiac
Album phòng thu của Radiohead
Phát hành5 tháng 6 năm 2001
Thu âmTháng 1, 1999 – cuối 2000
Thể loại
Thời lượng43:55
Hãng đĩaParlophone
Sản xuất
Thứ tự album của Radiohead
Kid A
(2000)
Amnesiac
(2001)
I Might Be Wrong: Live Recordings
(2001)
Đĩa đơn từ Amnesiac
  1. "Pyramid Song"
    Phát hành: 16 tháng 5 năm 2001
  2. "I Might Be Wrong"
    Phát hành: 4 tháng 6 năm 2001
  3. "Knives Out"
    Phát hành: 6 tháng 8 năm 2001
  4. "You and Whose Army?"
    Phát hành: 2001 (quảng bá)

Amnesiac là album phòng thu thứ năm của ban nhạc rock người Anh Radiohead. Nó được sản xuất bởi Nigel Godrich và phát hành ngày 5 tháng 6 năm 2001 qua Parlophone. Thu âm vào cùng thời kỳ với album trước, Kid A (2000), Amnesiac kết hợp các yếu tố nhạc điện tử, nhạc cổ điển, jazzkrautrock. Phần lời và bìa đĩa của album viết về các chủ đề thuộc ký ức và sự đầu thai ảnh hưởng bởi Hy LạpAi Cập. Tay bass Colin Greenwood mô tả Amnesiac có "nhiều bài hát kiểu-Radiohead hơn cùng với các bài hát thử nghiệm, không phụ thuộc phần lời dựa trên nhạc cụ."[4] Hát chính Thom Yorke mô tả nó như "cho Kid A một mặt khác, một dạng giải thích."[5]

Có ba đĩa đơn được phát hành từ Amnesiac: "Pyramid Song", "I Might Be Wrong" và "Knives Out". Album ra mắt ở vị trí số một trên UK Albums Chart và số hai trên Billboard 200, bán được hơn 900.000 bản trên toàn cầu tính đến tháng 10 năm 2008.[6] Dù nhiều nhà phê bình cho rằng nó kém hơn album anh em Kid A, Amnesiac vẫn nhận được nhiều đánh giá tích cực, và năm 2012, Rolling Stone xếp album ở số 320 trên phiên bản cập nhật của danh sách 500 album vĩ đại nhất.

Quá trình thu âm

[sửa | sửa mã nguồn]
The Humphrey Lyttelton Band biểu diễn trên "Life in a Glasshouse".

Gần như toàn bộ Amnesiac được thu vào cùng thời kỳ với album trước, Kid A, phát hành sớm hơn mười tháng vào tháng 10 năm 2000.[7][8] Thời kỳ thu âm này diễn ra ở Paris, Copenhagen, và Oxford từ đầu 1999 tới giữa 2000.[9] Không như các album rock trước đó của Radiohead, hai album trong thời kỳ này cho thấy ảnh hưởng của nhạc điện tử, nhạc cổ điển, jazzkrautrock, sử dụng bộ tổng hợp, trống máy, ondes Martenot (một nhạc cụ điện tử thời kỳ đầu), dàn dây giao hưởngnhạc cụ đồng.[7] Tay trống Phil Selway nói rằng thời kỳ [thu âm] Kid A Amnesiac có "hai trạng thái tâm lý... một là áp lực cũ của chúng tôi là mọi người cùng ở trong một căn phòng và chơi, và còn lại là sự khắc nghiệt của sáng tạo nhạc trong phòng thu. Tôi nghĩ Amnesiac tốt hơn về mặt sắp xếp ban nhạc."[10]

Sau khi hoàn thành được hơn hai mươi bài hát. Radiohead quyết định phát hành một loạt EP hoặc album đôi, nhưng thất bại trong việc tìm một danh sách bài hát làm họ hài lòng. Tay guitar Ed O'Brien cảm thấy các nhạc phẩm quá dày cho một album đôi, và các thính giả có thể bỏ qua các bài hát nào đó.[11] Thom Yorke nói Radiohead tách nhạc phẩm thành hai album vì "chúng [các bài hát] trừ khử lẫn nhau như một thứ được hoàn thành chung. Chúng đến từ hai nơi khác nhau, Tôi nghĩ ... Theo cách kỳ lạ nào đó Amnesiac cho Kid A một mặt khác, một dạng giải thích."[5] Ban nhạc nhấn mạnh rằng Amnesiac không phải là một mặt B hay "đồ thừa" từ Kid A mà là một album của chính nó.[12]

Chỉ có một bài hát, "Life in a Glasshouse", được thu âm sau khi Kid A phát hành. Vào cuối năm 2000, Jonny Greenwood viết cho nghệ sĩ trumpet jazz Humphrey Lyttelton để mời Humphrey Lyttelton Band chơi trong bài hát.[13] Greenwood nói với MOJO: "Chúng tôi nhận ra chúng tôi không thể chơi jazz. Bạn biết đó, chúng tôi luôn là một ban nhạc có tham vọng lớn nhưng năng lực chơi nhạc hạn chế."[14] Lyttelton đồng ý giúp sau khi con gái ông cho ông nghe album OK Computer (1997).[13]

Vào tháng 6 năm 2001, Radiohead bắt đầu lưu diễn để quảng bá Amnesiac, lần lưu diễn Bắc Mỹ đầu tiên của ban nhạc trong vòng ba năm.[15] Một số màn biểu diễn từ tour Kid AAmnesiac được phát hành qua EP I Might Be Wrong: Live Recordings, vào tháng 11 năm 2001.[16]

Bìa đĩa

[sửa | sửa mã nguồn]

Bìa đĩa Amnesiac được sáng tạo bởi Yorke và Stanley Donwood, người đã làm việc với Radiohead từ The Bends (1995). Bìa album vẽ hình một con minotaur trong thần thoại Hy Lạp đang khóc.[17] Donwood lấy cảm hứng từ một lần "đi tàu lửa đến London, và bị lạc". London giống như mê cung trong thần thoại, thành phố như "một nhà tù tưởng tượng, một nơi bạn có thể đi xung quanh và bạn là Minotaur của London, chúng ta đều là những con quái vật, chúng ta đều nữa người nữa thú. Chúng ta bị bẫy trong mê cung của dĩ vãn này."[17]

Tiếp nhận

[sửa | sửa mã nguồn]
Đánh giá chuyên môn
Điểm trung bình
NguồnĐánh giá
Metacritic75/100[18]
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AllMusic[19]
Robert Christgau(3-star Honorable Mention)[20]
Entertainment WeeklyC+[21]
The Guardian[22]
NME8/10[23]
Pitchfork Media9.0/10[24]
Rolling Stone[25]
Slant Magazine[26]
Sputnikmusic[27]
Spin7/10[28]

Amnesiac ra mắt ở vị trí số 2 trên Billboard 200 với lượng bán hàng 231,000 bản, vượt qua doanh số 207,000 bản trong tuần đầu của Kid A.[29] Nó được chứng nhận vàng bởi Hiệp hội Công nghiệp Thu âm Nhật Bản với lượng bán 100,000 bản toàn nước Nhật.[30]

Amnesiac nhận được đánh giá tích cực từ hầu hết các nhà phê bình. Trên Metacritic, với thang điểm 100, album nhận được trung bình 75 điểm, ít hơn năm điểm so với Kid A.[18]

Ryan Schreiber của Pitchfork Media viết rằng "ngoài chất lượng, sự sắp xếp đáng ngờ của Amnesiac làm chút ít để bưng bít rằng album chỉ là một tập hợp mặt b được che đậy mỏng manh ... Tuy nhiên, các điểm sáng của Amnesiac không thể phủ nhận rất đáng chờ, và dễ dàng chiến thắng sự chắp vá của nó."[24] Stephen Thomas Erlewine của AllMusic viết Kid AAmnesiac "rõ ràng xuất phát từ cùng một nguồn và có các lỗi chung ... sự phân chia chỉ làm hai album có vẻ bất tập trung, điều tuyệt nhất của hai album là khá làm choáng váng, bằng chứng tích cực rằng Radiohead là trong những ban nhạc một hay nhất thời của họ."[19] Bài đánh giá năm 2010 cho ấn bảng "Special Collectors Edition", Scott Plagenhoef ghi: "hơn Kid A – và có lẽ hơn bất kỳ LP nào đương thời – Amnesiac là một thời kỳ đáng nghe, hỗn độn ... rời rạc, tự nhận thức, căng cứng, triết chung, làm choáng váng đầu óc – một loạt các ý tưởng hay bị làm thiếu tự nhiên do các luật lệ, hạn chế, và sự thông thái thông thường."[31]

Nhiều tạp chí và nhà xuất bản âm nhạc xem Amnesiac là một trong những album hay nhất 2001. Q xếp nó trong top 50,[32] Rolling Stone xếp nó ở vị trí thứ 10,[33] Village Voice Pazz and Jop xếp thứ 6,[34] Los Angeles Times xếp thứ 5, và Alternative Press xếp thứ nhất.[35] Năm 2009, Pitchfork Media chọn Amnesiac làm album hay thứ 34 thập kỷ 2000[36] and Rolling Stone ranked it the 25th.[37] Năm 2012, Rolling Stone xếp album ở số 320 trên phiên bản cập nhật của danh sách 500 album vĩ đại nhất.[38]

Amnesiac được đề cử giải Mercury Music 2001.[39] Amnesiac là album thứ tư liên tiếp được giải Grammy đề cử cho Album Alternative xuất sắc nhất,[40] và phiên bản tái bản đặc biệt thắng bìa đĩa đẹp nhất trong giải Grammy lần thứ 44.[41]

Danh sách bài hát

[sửa | sửa mã nguồn]

Tất cả các ca khúc được viết bởi Radiohead (Colin Greenwood, Ed O'Brien, Jonny Greenwood, Philip Selway, Thom Yorke).

STTNhan đềThời lượng
1."Packt Like Sardines in a Crushd Tin Box"4:00
2."Pyramid Song"4:49
3."Pulk/Pull Revolving Doors" ([ghi chú 1])4:07
4."You and Whose Army?"3:11
5."I Might Be Wrong"4:54
6."Knives Out"4:15
7."Morning Bell/Amnesiac"3:14
8."Dollars and Cents"4:52
9."Hunting Bears"2:01
10."Like Spinning Plates"3:57
11."Life in a Glasshouse"4:34
"Collector's Edition"/"Special Collector's Edition" Disc 2
STTNhan đềThời lượng
1."The Amazing Sounds of Orgy"3:38
2."Trans-Atlantic Drawl"3:01
3."Fast-Track"3:17
4."Kinetic"4:06
5."Worrywort"4:37
6."Fog"4:04
7."Cuttooth"5:23
8."Life in a Glasshouse" (Full length version)5:08
9."You and Whose Army?" (Live at Canal+ Studios, Paris, Pháp, 28/04/01)3:18
10."Packt Like Sardines in a Crushd Tin Box" (Live at Canal+ Studios, Paris, France, 28/04/01)3:04
11."Dollars & Cents" (Live at Canal+ Studios, Paris, France, 28/04/01)4:41
12."I Might Be Wrong" (Live at Canal+ Studios, Paris, France, 28/04/01)4:55
13."Knives Out" (Live at Canal+ Studios, Paris, France, 28/04/01)4:22
14."Pyramid Song" (Live at Canal+ Studios, Paris, France, 28/04/01)5:07
15."Like Spinning Plates" (I Might Be Wrong: Live Recordings, 2001)3:52
"Special Collector's Edition" DVD
STTNhan đềThời lượng
1."Pyramid Song" 
2."Knives Out" 
3."I Might Be Wrong" 
4."Push Pulk/Like Spinning Plates" 
5."Pyramid Song" (Live on Top of the Pops, 25/05/01) 
6."Knives Out" (Live on Top of the Pops, 17/08/01) 
7."Packt Like Sardines in a Crushd Tin Box" (Live on Later... with Jools Holland, 09/06/01) 
8."Knives Out" (Live on Later... with Jools Holland, 09/06/01) 
9."Life in a Glasshouse" (Live on Later... with Jools Holland, 09/06/01) 
10."I Might Be Wrong" (Live on Later... with Jools Holland, 09/06/01) 

Thành phần tham gia

[sửa | sửa mã nguồn]

Dựa trên phần bìa ghi chú của Amnesiac.[8]

Radiohead
Nhạc sĩ khác tham gia

Trong "Life in a Glasshouse":

Thành phần khác
  • Stanley Donwood – bìa đĩa và bao bì
  • Nigel Godrich – sản xuất và kỹ thuật
  • Dan Grech-Marguerat – kỹ thuật trên "Life in a Glasshouse"
  • Gerard Navarro – kỹ thuật
  • Graeme Stewart – kỹ thuật

Bảng xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]
Bảng xếp hạng (2001) Vị trí
cao nhất
Album Úc (ARIA)[42] 2
Album Canada (Billboard)[43] 1
Album Phần Lan (Suomen virallinen lista)[44] 1
Album Pháp (SNEP)[45] 2
Album Đức (Offizielle Top 100)[46] 2
Album Ý (FIMI)[47] 2
Album Ba Lan (ZPAV)[48] 3
Album Thụy Sĩ (Schweizer Hitparade)[49] 6
Album Anh Quốc (OCC)[50] 1
Hoa Kỳ Billboard 200[51] 2

Chứng nhận

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Úc (ARIA)[52] Vàng 35.000^
Canada (Music Canada)[53] Bạch kim 100.000^
Pháp (SNEP)[54] Vàng 100.000*
Hoa Kỳ (RIAA)[55] Vàng 500.000^
Anh Quốc (BPI)[56] Bạch kim 300.000^

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.

  1. ^ tên "Pull/Pulk Revolving Doors" trên "Collector's Edition".

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Radiohead Amnesiac Review”. BBC Music. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2015.
  2. ^ Kot, Greg (ngày 3 tháng 6 năm 2001). 3 tháng 6 năm 2001/news/0106030465_1_thom-yorke-band-experiment “Test patterns” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Chicago Tribune. Tribune Company. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2013.[liên kết hỏng]
  3. ^ Lapatine, Scott (ngày 3 tháng 6 năm 2011). “Amnesiac Turns 10! Hear Covers of Every Track ...”. Stereogum. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2013.
  4. ^ vanHorn, Teri (ngày 23 tháng 2 năm 2001). “Radiohead's Amnesiac Fills in Kid A Picture”. MTV. Viacom. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2014.
  5. ^ a b Kot, Greg (ngày 31 tháng 7 năm 2001). 31 tháng 7 năm 2001/features/0107310006_1_pink-floyd-amnesiac-thom-yorke “'It's difficult justifying being a rock band' Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Chicago Tribune. Tribune Company. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2012.[liên kết hỏng]
  6. ^ Michaels, Sean (ngày 16 tháng 10 năm 2008). 'In Rainbows outsells last two Radiohead albums'. Guardian. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
  7. ^ a b Reynolds, Simon (tháng 7 năm 2001). “Walking on Thin Ice”. The Wire. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2007.
  8. ^ a b Amnesiac (booklet). Radiohead. Parlophone. 2001.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  9. ^ O'Brien, Ed (ngày 22 tháng 7 năm 1999 to ngày 26 tháng 6 năm 2000). “Ed's Diary”. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2007. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2007. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  10. ^ Fricke, David (ngày 24 tháng 5 năm 2001). “Radiohead Warm Up with 'Amnesiac'. Rolling Stone. Wenner Media. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2014.
  11. ^ Yago, Gideon (ngày 18 tháng 7 năm 2001). “Played in Full”. MTV. Viacom. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2014.
  12. ^ Greenwood, Colin; O'Brien, Ed (ngày 25 tháng 1 năm 2001). “Interview with Ed & Colin” (Phỏng vấn). Phỏng vấn viên Chris Douridas. Đã bỏ qua tham số không rõ |program= (trợ giúp); Đã bỏ qua tham số không rõ |callsign= (trợ giúp); Đã bỏ qua tham số không rõ |subjectlink2= (gợi ý |subject-link2=) (trợ giúp); Đã bỏ qua tham số không rõ |subjectlink1= (gợi ý |subject-link1=) (trợ giúp)
  13. ^ a b Reynolds, Simon (tháng 4 năm 2001). “Radiohead recruit new member”. Q. Bauer Media Group. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2012.
  14. ^ Broc, David. “Remembering The Future - Interview with Jonny Greenwood”. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2014.
  15. ^ Pakvis, Peter (ngày 21 tháng 6 năm 2001). “Radiohead Take 'Amnesiac' On Tour”. Rolling Stone. Rolling Stone. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2014.
  16. ^ Marianne Tatom Letts (ngày 8 tháng 11 năm 2010). Radiohead and the Resistant Concept Album: How to Disappear Completely. Indiana University Press. tr. 167–. ISBN 0-253-00491-8.
  17. ^ a b Pricco, Evan (ngày 3 tháng 9 năm 2010). “A Stanley Donwood Interview”. Juxtapox.com. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2012.
  18. ^ a b Amnesiac – Radiohead”. Metacritic. CBS Interactive. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2011.
  19. ^ a b Erlewine, Stephen Thomas. “Radiohead: Amnesiac > Review”. AllMusic. All Media Network. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2011. templatestyles stripmarker trong |work= tại ký tự số 1 (trợ giúp)
  20. ^ “Album: Radiohead: Amnesiac”. Robert Christgau. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2012.
  21. ^ Browne, David (ngày 8 tháng 6 năm 2001). “Amnesiac Review”. Entertainment Weekly. Time Warner. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2012.
  22. ^ Thomson, Graeme (ngày 1 tháng 6 năm 2001). “CD of the Week: Radiohead: Amnesiac Review”. The Guardian. London: GMG. ISSN 0261-3077. OCLC 60623878. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2011.
  23. ^ Segal, Victoria (ngày 30 tháng 5 năm 2001). “Radiohead: Amnesiac”. NME. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2014.
  24. ^ a b Schreiber, Ryan (ngày 4 tháng 6 năm 2001). “Radiohead: Amnesiac. Pitchfork. Pitchfork Media. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2011.
  25. ^ Pareles, Jon (ngày 29 tháng 5 năm 2001). “Amnesiac”. Rolling Stone. Wenner Media. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2013.
  26. ^ Cinquemani, Sal (ngày 30 tháng 5 năm 2001). “Music Review: 'Amnesiac' (2001)”. Slant Magazine. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2011.
  27. ^ Downer, Adam (ngày 26 tháng 4 năm 2006). “Radiohead – Amnesiac (album review)”. Sputnikmusic. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2012.
  28. ^ Spin (tháng 7 năm 2001). Bangers and Mash. Spin Media. tr. 123–124. ISSN 0886-3032. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2014.
  29. ^ Martens, Todd (ngày 14 tháng 6 năm 2001). “Staind Fends Off Radiohead, St. Lunatics at No.1”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2013.
  30. ^ “RIAJ > The Record > July 2001 > Page 8 > Certified Awards (May 2001)” (PDF). Recording Industry Association of Japan (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2013.
  31. ^ Plagenhoef, Scott (ngày 26 tháng 8 năm 2009). “Radiohead: Amnesiac: Special Collectors Edition”. Pitchfork. Pitchfork Media. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2012.
  32. ^ “The Best 50 Albums of 2001”. Q. tháng 12 năm 2001. tr. 60–65.
  33. ^ “Rolling Stone (USA) End Of Year Lists”. Rocklist. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  34. ^ “Pazz & Jop 2001: Album Winners”. The Village Voice. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2007.
  35. ^ “A.P. CRITICS POLL: THE 25 BEST ALBUMS OF 2001”. Alternative Press (#163). tháng 2 năm 2002.
  36. ^ “The Top 200 Albums of the 2000s: 50–21”. Pitchfork. Pitchfork Media. ngày 1 tháng 10 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2012.
  37. ^ “Radiohead, 'Amnesiac'. Rolling Stone. Wenner Media. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2014.
  38. ^ “500 Greatest Albums of All Time: Radiohead, 'Amnesiac'. Rolling Stone. Wenner Media. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2012.
  39. ^ “PJ Harvey wins Mercury prize – after witnessing Pentagon attack”. The Guardian. ngày 12 tháng 9 năm 2001. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2011.
  40. ^ Basham, David (ngày 24 tháng 1 năm 2002). “Got Charts? Creed, Eminem, No Doubt, 'NSYNC Have Something in Common”. MTV News. Viacom. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2011.
  41. ^ “2001 Grammy Award Winners”. Grammy.com. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2011.
  42. ^ "Australiancharts.com – Radiohead – Amnesiac" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  43. ^ "Radiohead Chart History (Canadian Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  44. ^ "Radiohead: Amnesiac" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland.
  45. ^ "Lescharts.com – Radiohead – Amnesiac" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien.
  46. ^ "Longplay-Chartverfolgung at Musicline" (bằng tiếng Đức). Musicline.de. Phononet GmbH.
  47. ^ "Italiancharts.com – Radiohead – Amnesiac" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  48. ^ "Oficjalna lista sprzedaży :: OLiS - Official Retail Sales Chart" (bằng tiếng Ba Lan). OLiS. Polish Society of the Phonographic Industry.
  49. ^ "Swisscharts.com – Radiohead – Amnesiac" (bằng tiếng Đức). Hung Medien.
  50. ^ "Radiohead | Artist | Official Charts" (bằng tiếng Anh). UK Albums Chart.
  51. ^ "Radiohead Chart History (Billboard 200)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  52. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2001 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
  53. ^ “Chứng nhận album Canada – Radiohead – Amnesiac” (bằng tiếng Anh). Music Canada.
  54. ^ “Notre Base de Données: Radiohead” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2014.
  55. ^ “Chứng nhận album Hoa Kỳ – Radiohead – Amnesiac” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ.
  56. ^ “Certified Awards Search”. British Phonographic Industry. Bản gốc (To access, enter the search parameter "Radiohead") lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2011.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Giới thiệu các nhân vật trong Postknight 2
Giới thiệu các nhân vật trong Postknight 2
Trong Postknight 2 chúng ta sẽ gặp lại những người bạn cũ, và thêm những người bạn mới
Nhân vật Zenin Maki - Jujutsu Kaisen
Nhân vật Zenin Maki - Jujutsu Kaisen
Zenin Maki (禪ぜん院いん真ま希き Zen'in Maki?, Thiền Viện Chân Hi) là một nhân vật phụ quan trọng trong bộ truyện Jujutsu Kaisen và là một trong những nhân vật chính của bộ tiền truyện, Jujutsu Kaisen 0: Jujutsu High.
Valentine đen 14/4 - Đặc quyền bí mật khi em chưa thuộc về ai
Valentine đen 14/4 - Đặc quyền bí mật khi em chưa thuộc về ai
Giống như chocolate, những món ăn của Valentine Đen đều mang vị đắng và ngọt hậu. Hóa ra, hương vị tình nhân và hương vị tự do đâu có khác nhau nhiều
[Tóm tắt] Light Novel Năm 2 Tập 1 - Classroom of the Elite
[Tóm tắt] Light Novel Năm 2 Tập 1 - Classroom of the Elite
Bức màn được hé lộ, năm thứ hai của series cực kỳ nổi tiếng này đã xuất hiện