Anna Amalie của Phổ

Anna Amalie của Phổ
Chân dung của Anna Amalie trong vai amazon bởi Antoine Pesne, trước năm 1757
Nữ Thân vương Viện mẫu xứ Quedlinburg
Tại vị1755–30 tháng 3 năm 1787
Tiền nhiệmMarie Elisabeth xứ Schleswig-Holstein-Gottorp
Kế nhiệmSofia Albertina của Thụy Điển
Thông tin chung
Sinh9 tháng 11 năm 1723
Berlin, Vương quốc Phổ
Mất30 tháng 3 năm 1787 (63 tuổi)
Berlin, Vương quốc Phổ
An tángNhà thờ lớn Berlin
Vương tộcHohenzollern
Thân phụFriedrich Wilhelm I Vua hoặc hoàng đế
Thân mẫuSophie Dorothea của Hannover

Anna Amalie của Phổ (tiếng Đức: Anna Amalie von Preußen; 9 tháng 11 năm 1723 – 30 tháng 3 năm 1787) là một nhà soạn nhạc và giám tuyển âm nhạc người Đức thời kỳ cận đại, và là Nữ Thân vương Viện mẫu xứ Quedlinburg. Anna Amalie là Vương nữ Phổ với tư cách là con gái của Friedrich Wilhelm I của Phổ và là em gái của Friedrich Đại đế.

Đầu đời

[sửa | sửa mã nguồn]
A throne room with a middle-aged lady in a silver dress standing in the middle, facin a man in a gilded red coat. Between them is a little girl in a light blue dress and a boy. Behind the lady stand five young girls, descending in height towards the edge of the canvas. Many courtiers are standing in the background.
Bức tranh năm 1729 của Antoine Pesne cho thấy chuyến viếng thăm của August II Mạnh mẽ, Tuyển hầu xứ SachsenVua của Ba Lan. Mẹ của Amalie đứng ở giữa, các chị gái của bà ở bên phải Vương hậu và Amalie 6 tuổi ở bên trái, mặc váy màu xanh nhạt.

Anna Amalie của Phổ sinh vào ngày 9 tháng 11 năm 1723 tại Berlin, Vương quốc Phổ, là đứa con thứ 12 và là con gái thứ 7 của Friedrich Wilhelm I và vợ là Sophie Dorothea của Hannover. Anna Amalie có 13 anh chị em, 10 người trong số đó sống sót đến tuổi trưởng thành, bao gồm cả Friedrich Đại đế sau này. Những đứa trẻ của vương thất Phổ được nuôi dưỡng tại Berlin, và sống trong Cung điện Hoàng gia (Königliches Schloss; ngày nay là Cung điện Berlin/Berliner Schloss), nhưng các anh chị em cũng thường xuyên dành thời gian tại dinh thụ yêu thích của nhà vua là jagdschloss ("lâu đài săn bắn") tại Königs Wusterhausen.

Amalie có năng khiếu âm nhạc giống như Thái tử Friedrich, nhưng vương nữ chỉ có thể được học một nhạc cách chính thức sau cái chết của người cha vũ phu, người coi âm nhạc là sự suy đồi.[1] Friedrich Wilhelm có tính khí thất thường,[2] thường kéo tóc của Amalie qua phòng trong cơn giận. Tuổi thơ của Amalie bị lu mờ bởi cha bà, người được miêu tả là một người lính không được học hành, không được trau chuốt và khắc khổ. Friedrich Wilhelm là một kẻ nghiện rượu có sở thích hút tẩu với những người dân thường, một người theo Thần học Calvin cực kỳ ngoan đạo nhưng hẹp hòi,[2] là một người yêu vợ và chung thủy nhưng lại cư xử bạo lực với cả gia đình, với những người cận thần hay bất kỳ ai làm ông bực tức.[3] Âm nhạc trở thành niềm an ủi thầm kín của Amalie. Vương nữ lần đầu tiên được dạy nhạc bởi Thái tử Friedrich với sự hỗ trợ của mẹ, và học chơi đàn harpsichord, sáovĩ cầm.

Vào tháng 5 năm 1740, Friedrich Wilhelm II qua đời và anh trai cả của Amalie kế vị ngai vàng, lấy hiệu là Friedrich II.[4]

Đề xuất hôn nhân

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi Adolf Friedrich xứ Holstein-Gottorp được bầu làm người thừa kế ngai vàng Thụy Điển vào năm 1743 do Vua Fredrik I không có hậu duệ, Phổ, Nga và Thụy Điển đã thực hiện một liên minh.[5] Một cuộc hôn nhân được đề xuất giữa vị Trữ quân mới của Thụy Điển với Amalie hoặc chị gái là Luise Ulrike. Vua Friedrich cho rằng Luise Ulrike quá tham vọng để có thể trở thành một vương hậu tốt trong một chế độ quân chủ tương đối yếu thế,[6] khi Thụy Điển đang ở trong Kỷ nguyên tự do (1720–1772), một thời kỳ quản lý theo chế độ nghị viện.[5] Nhà vua mô tả Amalie là người ôn hòa và tốt bụng, do đó phù hợp hơn với vai trò vương hậu. Friedrich được cho là tin rằng Amalie sẽ dễ kiểm soát hơn khi trở thành điệp viên Phổ tại triều đình Thụy Điển. Tuy nhiên, công sứ Thụy Điển lại thích Luise Ulrike hơn, và vương nữ sau đó kết hôn với Adolf Friedrich thông qua ủy nhiệm vào tháng 7 năm 1744.

Viện mẫu, nhà soạn nhạc và giám tuyển âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
An old lady's face and upper body from profile. She had a big nose and start facial features. Her hair is braided under a cap with a black veil on top.
Chân dung của Amalie được vẽ sau khi bà qua đời, bởi họa sĩ theo trường phái hiện thực Adolph Menzel.

Năm 1755, sau cái chết của nữ tu viện trước đó là Marie Elisabeth xứ Schleswig-Holstein-Gottorp, Amalie được bầu làm Nữ Thân vương Viện mẫu của Tu viện Hoàng gia Thế tục Tự do Quedlinburg (tiếng Đức: Kasierlich Freie Weltliche Reichsstift Quedlinburg),[7] khiến cho Amalie trở thành một người phụ nữ giàu có và có ảnh hưởng, với quyền ngồi và phát biểu tại Đại hội Đế quốc.[8] Bà dành phần lớn thời gian tại Berlin và cống hiến hết mình cho âm nhạc, trở nên nổi tiếng là một nhà bảo trợ và nhà soạn nhạc. Năm 1758, Amalie bắt đầu học lý thuyết âm nhạc và sáng tác từ Johann Kirnberger, một học trò của Johann Sebastian Bach.

Anna Amalie đạt được danh tiếng khiêm tốn và được biết đến nhiều nhất qua nhạc thính phòng, bao gồm các bản tam tấu, hành khúc, cantata, bài háttẩu pháp. Trong số các sáng tác của Amalie, tác phẩm mà bà yêu thích nhất là cantata passion Der Tod Jesu ("Cái chết của Chúa Jesus"), dựa trên một bài thơ của Karl Wilhelm Ramler. Chỉ một số ít tác phẩm của Amalie còn tồn tại và bà đã có thể phá bỏ nhiều sáng tác của mình, vì Amalie tự mô tả mình là người rất rụt rè và hay tự phê bình. Nhiều sáng tác khác của Amalie có thể đã xuất hiện sau khi kho lưu trữ của Sing-Akademie zu Berlin bị thất lạc từ Thế chiến thứ II được tìm thấy tại Kyiv vào năm 2000.[9]

Amalie cũng sưu tầm nhạc và lưu giữ hơn 600 tập nhạc của Johann Sebastian Bach, George Frideric Handel, Georg Philipp Telemann, Carl Heinrich GraunCarl Philipp Emanuel Bach, cùng nhiều nhà soạn nhạc khác. Thư viện của Amalie bị chia cắt giữa Đông ĐứcTây Đức sau Thế chiến thứ II và được hợp nhất sau khi nước Đức tái thống nhất vào năm 1990. Ngày nay, nó được lưu giữ tại Thư viện Nhà nước Berlin.[9]

Anna Amalie qua đời vào ngày 30 tháng 3 năm 1787 ở tuổi 63,[10] và được chôn cất tại Nhà thờ Berlin. Cháu gái của Amalie là Sofia Albertina của Thụy Điển sau đó kế vị trở thành Viện mẫu xứ Quedlinburg.

Một số các tác phẩm

[sửa | sửa mã nguồn]

Sonata cung Fa trưởng (cho sáo và basso continuo) (1771)

[sửa | sửa mã nguồn]

I. Adagio, II. Allegretto, III. Allegro ma non troppo[11]

Bản sonata dành cho sáo có lẽ là tác phẩm nổi tiếng nhất của Amalie[12] và có thời lượng khoảng 11 phút.[11]

Concerto cho đàn harpsichord cung Sol trưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

I. Allegro, Sol thứ, II. Andantino, Đô trưởng, III. Allegro, Sol trưởng

Bản concerto được sáng tác cho đàn harpischord độc tấu, 2 sáo, 2 ô-boa, 2 kèn pha-gốt và đàn dây. Nó được viết cho dàn nhạc thính phòng và có thể chơi với chỉ một người cho mỗi phần, với thời lượng khoảng 13 phút. Bản nhạc có phần độc tấu được tích hợp tốt, và chương thứ hai chủ yếu là dàn nhạc. Phần kết giống một bản minuet với tam tấu có phần độc tấu kèn hơi.[13]

Divertimento ở cung Si giáng trưởng (k.1780)

[sửa | sửa mã nguồn]

I. Adagio, Si giáng trưởng, II. Allegro, Si giáng trưởng

Bản divertimento có thể được ảnh hưởng bởi Mozart và có thể là bản nhạc thính phòng đầu tiên có sự góp mặt của kèn clarinet. Mở đầu bằng phần tutti và sau đó được dẫn dắt bởi đàn viola.[13] Dựa trên trang tiêu đề của bản Divertimento (IMSLP.org), bản nhạc thực chất được sáng tác bởi Anna Amalie xứ Braunschweig-Wolfenbüttel.

Tổ tiên

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Farquhar 2001, tr. 114.
  2. ^ a b Mitford 2013, tr. 27.
  3. ^ Atkinson 1858, tr. 132-133.
  4. ^ Atkinson 1858, tr. 205.
  5. ^ a b Chisholm 1911, tr. 206.
  6. ^ Jägerskiöld 1945.
  7. ^ Huberty và đồng nghiệp 1989, tr. 162, 172.
  8. ^ Benecke 2014, Appendix III.
  9. ^ a b Grimsted 2003.
  10. ^ von Ammon 1768, Table 16.
  11. ^ a b "Anna Amalia Princess of Prussia (1723–1787). Sonata in F major. (for flute and continuo)". EarSense. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2022.
  12. ^ "Anna Amalia, Princess of Prussia". ZKM (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2022.
  13. ^ a b "Women of Note. Celebrating two hundred and fifty years of music by women. Anna Amalia (1739–1807)". Oboe Classics. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2022.
  14. ^ Genealogie ascendante jusqu'au quatrieme degre inclusivement de tous les Rois et Princes de maisons souveraines de l'Europe actuellement vivans [Genealogy up to the fourth degree inclusive của all the Kings and Princes của sovereign houses của Europe currently living] (bằng tiếng Pháp). Bourdeaux: Frederic Guillaume Birnstiel. 1768. tr. 16.

Tài liệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Anna Amalie
Tước hiệu
Tiền nhiệm:
Marie Elisabeth
Nữ Thân vương Viện mẫu xứ Quedlinburg
1756–1787
Kế nhiệm:
Sofia Albertina
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
[Genshin Impact] Bi kịch nhà Ragnvindr
[Genshin Impact] Bi kịch nhà Ragnvindr
Trước hết cần làm rõ rằng Kaeya Aberich là em trai nuôi của Diluc Ragnvindr, tuy nhiên anh cũng là một gián điệp của Khaenri'ah
14 nguyên tắc trong định luật Murphy
14 nguyên tắc trong định luật Murphy
Bạn có bao giờ nghiệm thấy trong đời mình cứ hôm nào quên mang áo mưa là trời lại mưa; quên đem chìa khóa thì y rằng không ai ở nhà
Một vài nét về bố đường quốc dân Nanami Kento - Jujutsu Kaisen
Một vài nét về bố đường quốc dân Nanami Kento - Jujutsu Kaisen
Lúc bạn nhận ra người khác đi làm vì đam mê là khi trên tay họ là số tiền trị giá hơn cả trăm triệu thì Sugar Daddy Nanami là một minh chứng khi bên ngoài trầm ổn, trưởng thành
Một chút đọng lại về
Một chút đọng lại về " Chiến binh cầu vồng"
Nội dung cuốn sách là cuộc sống hàng ngày, cuộc đấu tranh sinh tồn cho giáo dục của ngôi trường tiểu học làng Muhammadiyah với thầy hiệu trưởng Harfan