Anna Paquin

Anna Paquin
Paquin tại the 25th Annual Paley Television Festival, ArcLight Cinemas, Los Angeles, (13/04/2009)
SinhAnna Helene Paquin
24 tháng 7, 1982 (42 tuổi)
Winnipeg, Manitoba, Canada
Nghề nghiệpNữ diễn viên
Năm hoạt động1993–tới nay
Phối ngẫuStephen Moyer (2010–tới nay)

Anna Helene Paquin (phát âm /ˈpækwɪn/; sinh ngày 24.7.1982) là nữ diễn viên người New Zealand sinh tại Canada. Phim thành công đầu tiên của Paquin là phim The Piano, đã mang lại cho cô Giải Oscar cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất vào năm 1994 ở tuổi 11 – người trẻ thứ nhì đoạt giải trong lịch sử.[1] Sự nghiệp diễn xuất của cô đã diễn ra gần nửa thập kỷ sau, khi cô xuất hiện trong một loạt các bộ phim thành công trong đó có She's All That, Almost FamousX-Men franchise.

Paquin đã nhận được lời khen ngợi cho vai nhân vật Sookie Stackhouse trong loạt phim True Blood trên kênh truyền hình HBO, loạt phim mà cô giành được Giải Quả cầu vàng cho nữ diễn viên phim truyền hình xuất sắc nhất năm 2008.

Cuộc đời và Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Thời niên thiếu

[sửa | sửa mã nguồn]

Paquin sinh tại Winnipeg, Manitoba, Canada, là con gái của Mary Paquin (nhũ danh Brophy), một giáo viên người Anh sinh tại Wellington, New Zealand và Brian Paquin, một giáo viên thể dục ở trường trung học. Paquin là con út trong ba người con, cô có hai anh chị: anh trai Andrew một giám đốc, sinh năm 1977, và chị Katya, sinh năm 1980.[2][3] Gia đình Paquin di chuyển tới New Zealand khi cô lên 4 tuổi. Cô theo học trường Raphael House Rudolf Steiner tới năm lên 8 hoặc 9 tuổi.[4] Các sở thích âm nhạc lúc rảnh rỗi trong thời thơ ấu của cô tại New Zealand bao gồm chơi đàn viola, cello và dương cầm. Cô cũng tham gia vào tập thể dục, múa ba-lê, bơi lội, và trượt tuyết xuống dưới đồi; nhưng cô không có bất kỳ sở thích nào liên quan đến diễn xuất.[5][6]

Năm 1994-95, Paquin học trường Hutt Intermediate ở New Zealand. Cô bắt đầu học trung học tại trường Wellington Girls 'CollegeWellington và tốt nghiệp bằng trung học tại trường WindwardLos Angeles vào tháng 6 năm 2000, nơi cô cùng mẹ chuyển tới cư ngụ sau khi cha mẹ ly dị vào năm 1995.[7] Cô hoàn thành yêu cầu phục vụ cộng đồng của trường bằng cách làm việc trong một nhà bếp nấu súp ở Los Angeles và tại một trung tâm giáo dục đặc biệt. Cô theo học Đại học Columbia trong một năm, nhưng sau đó đã xin nghỉ phép để tiếp tục sự nghiệp diễn xuất.

Nữ diễn viên trẻ em

[sửa | sửa mã nguồn]

Chính tại New Zealand vào năm 1991 mà Paquin đã tình cờ trở thành một nữ diễn viên. Đạo diễn Jane Campion tìm kiếm một bé gái để đóng một vai then chốt trong phim The Piano, được quay ở New Zealand. Bà đăng quảng cáo trên báo loan tin mở một cuộc diễn xuất thử để tuyển chọn. Người chị của Paquin đọc quảng cáo và đi thử với một người bạn; Paquin chỉ đi theo để xem, nhưng khi đạo diễn Campion thấy Paquin thử trình diễn màn độc thoại về người cha của Flora, thì bà đã có ấn tượng sâu sắc đối với cô bé 9 tuổi này và đã chọn cô trong số 5.000 ứng viên tham dự.[6]

Khi được trình chiếu vào năm 1993, phim The Piano đã được nhiều nhà phê bình khen ngợi và đoạt một số giải thưởng ở các cuộc liên hoam phim, trở thành phim được nhiều khán giả ưa thích. Diễn xuất khởi đầu của Paquin trong phim này đã mang lại cho cô một Giải Oscar cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất ở tuổi 11, khiến cô trở thành người đoạt giải Oscar trẻ thứ nhì trong lịch sử, sau Tatum O'Neal.[6] Phim The Piano được làm như một phim độc lập nhỏ, không mong đợi được phổ biến rộng rãi, và Paquin cùng gia đình cô cũng không có ý định để cô tiếp tục theo đuổi nghề diễn xuất.[5] Tuy nhiên, sau đó cô đã được mời đến William Morris Agency, và được mời đóng các vai mới. Cô đã từ chối các vai này, nhưng lại xuất hiện trong 3 phim quảng cáo thương mại cho công ty điện thoại MCI (nay là Verizon) vào năm 1994.[8] Cô cũng cho mượn giọng trong một sách nói (audio book) mang tên The Magnificent Nose năm 1994.

Năm 1996, cô xuất hiện trong 2 phim: vai Jane trẻ trong phim Jane Eyre và vai cô gái trẻ trong phim Fly Away Home, sau khi người mẹ qua đời, đã dọn về cư ngụ với người cha và tìm được niềm khuây khỏa khi chăm sóc các con ngỗng non mồ côi.[9]

Ở tuổi thanh thiếu niên, cô đã có các vai diễn trong các phim như A Walk on the Moon, Amistad, Hurlyburly, She's All ThatAlmost Famous.

Phim X-Men

[sửa | sửa mã nguồn]

Paquin trở lại nổi tiếng khắp thế giới với vai diễn người đột biến (mutant) siêu nữ anh hùng (superheroine) Rogue trong phim X-Men năm 2000 của hãng Marvel Comics,[1] với phần tiếp theo là X2 năm 2003, và phần thứ ba là X-Men: The Last Stand năm 2006.

Paquin năm 2006

Vào mùa thu năm 2006, cô hoàn thành việc quay phim Blue State. Cô là nhà điều hành sản xuất của phim này, một phim do hãng Paquin Films thực hiện, một công ty sản xuất phim do cô và người anh trai Andrew Paquin lập ra.[10] Tháng 11 năm 2006, cô hoàn thành phim Margaret.

Năm 2007, Paquin được đề cử nhận Giải Emmy cho Nữ diễn viên phụ trong loạt phim ngắn hoặc một phim (Supporting Actress In A Miniseries Or A Movie) về vai Elaine Goodale trong phim truyền hình Bury My Heart at Wounded Knee của kênh HBO, dựa trên tiểu thuyết bán chạy nhất của Dee Brown. Cô cũng nhận được các đề cử cho Giải Quả cầu vàngGiải của Nghiệp đoàn diễn viên màn ảnh (Screen Actors Guild Award) trong cùng thể loại.

Năm 2008, Paquin đóng vai chị hầu bàn Sookie Stackhouse trong loạt phim kịch True Blood trên kênh truyền hình HBO, vai diễn đầu tiên của cô trong loạt phim kịch truyền hình. Phim dựa trên loạt truyện The Southern Vampire Mysteries của Charlaine Harris, xảy ra ở thành phố hư cấu Bon Temps ở Louisiana.[11] Paquin đoạt Giải Quả cầu vàng cho nữ diễn viên kịch truyền hình xuất sắc nhất cho vai diễn trong phim này, và cũng đoạt một Giải Vệ tinh trong cùng thể loại. Cô cũng được đề cử cho Giải Quả cầu vàng năm 2009 trong cùng thể loại này. True Blood kỳ 2 được chiếu ra mắt tại Mỹ trong tháng 6 năm 2009. True Blood kỳ 3 được chiếu suất ra mắt trong tháng 6 năm 2010, còn kỳ 4 sẽ được ra mắt trong năm 2011.

Năm 2009, Paquin đóng vai Irena Sendler, một phụ nữ Ba Lan được hoan nghênh như một nữ anh hùng của các Holocaust, trong phim The Courageous Heart of Irena Sendler, một phim tiểu sử truyền hình của CBS dựa trên quyển Mother of the Children of the Holocaust: The Irena Sendler Story, của Anna Mieszkowska. Phim được thực hiện ở Latvia, và là một giới thiệu của Hallmark Hall of Fame (chương trình hợp tuyển trên TV Mỹ) cho mạng truyền hình.[12] Diễn xuất của Paquin đã mang lại cho cô một đề cử cho Giải Quả cầu vàng cho nữ diễn viên phim truyền hình xuất sắc nhất năm 2010.

Phim The Romantics của Paquin, một phim lãng mạn với Josh DuhamelKatie Holmes, đã được phát hành ở Mỹ tại các rạp chọn lọc trong tháng 9 năm 2010.[cần dẫn nguồn]

Năm 2010, Paquin đóng một vai nhỏ trong phim Scream 4, sẽ được phát hành trong năm 2011.[13]

Sự nghiệp sân khấu

[sửa | sửa mã nguồn]
Paquin với chồng là Stephen Moyer, diễn viên đóng chung trong phim True Blood năm 2009

Paquin bắt đầu diễn kịch năm 2001 trong vở The Glory of LivingNhà hát MCC và đã đoạt Giải Kịch nghệ thế giới (Theatre World Award) năm 2001-2002.[14] Từ đó cô đã xuất hiện trong nhiều vở kịch khác ở Hoa Kỳ, và một lần trên sân khấu West EndLondon trong vở This is Our Youth năm 2002.

Đời tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 5.8.2009, có loan báo là Paquin hứa hôn với bạn đồng diễn trong True BloodStephen Moyer, người mà cô đã hẹn hò từ khi quay loạt phim thí điểm năm 2007.[15][16][17] Ngày 21.8.2010, Paquin và Moyer kết hôn tại nơi cư ngụ riêng tư ở Malibu, California.[18] Do cuộc hôn nhân với Moyer, Paquin có một con trai ghẻ, Billy, sinh năm 2000, và một con gái ghẻ, Lilac, sinh năm 2002.[19] Paquin và Moyer cư ngụ ở Venice, Los Angeles.[20]

Ngày 1.4.2010, một quảng cáo dịch vụ công cộng cho biết Paquin sẽ xuất hiện như người song tính luyến ái cho chiến dịch "Give a Damn" như một phần của "Quỹ True Colors", một nhóm ủng hộ do Cyndi Lauper tổ chức nhằm cống hiến cho Quyền bình đẳng của người đồng tính luyến ái, song tính luyến ái và cảm nhận chuyển giới tính (lesbian, gay, bisexual, and transsexual equality, viết tắt là LGBT equality).[21]

Danh mục phim

[sửa | sửa mã nguồn]
Phim
Năm Phim Vai diễn Chú thích
1993 Piano, TheThe Piano Flora McGrath Giải Oscar cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất
Giải của Hiệp hội phê bình phim Los Angeles cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất
Giải của Giới phê bình phim Úc cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất
Đề cử—Giải Quả cầu vàng cho nữ diễn viên điện ảnh phụ xuất sắc nhất
Đề cử—Giải của Hiệp hội phê bình phim Chicago cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất
1996 Jane Eyre Jane Eyre trẻ
1996 Fly Away Home Amy Alden
1997 Member of the Wedding, TheThe Member of the Wedding Frankie Addams phim TV
1997 Amistad Isabela II của Tây Ban Nha
1998 Hurlyburly Donna
1998 Castle in the Sky Sheeta (giọng)
1999 It's the Rage Annabel Lee phim TV
1999 She's All That Mackenzie Siler
1999 Walk on the Moon, AA Walk on the Moon Alison Kantrowitz
2000 X-Men Rogue/Marie
2000 Almost Famous Polexia Aphrodisia Giải của Hội phê bình phim trực tuyến cho toàn bộ diễn viên xuất sắc nhất
Đề cử—Giải của Nghiệp đoàn diễn viên màn ảnh cho toàn bộ diễn viên xuất sắc trong một phim
2000 Finding Forrester Claire Spence
2001 Buffalo Soldiers Robyn Lee
2002 Darkness Regina
2002 25th Hour Mary D'Annunzio
2003 X2 Rogue/Marie
2004 Steamboy James Ray Steam (giọng)
2005 Squid and the Whale, TheThe Squid and the Whale Lili Thorn Giải Gotham cho toàn bộ diễn viên xuất sắc nhất
2005 Joan Of Arc Joan (giọng) phim TV
2006 X-Men: The Last Stand Rogue/Marie
2006 Hannibal Rising Cô hầu phòng
2007 Blue State Chloe Hamon
2007 Mosaic Maggie Nelson (giọng)
2007 Bury My Heart at Wounded Knee Elaine Goodale Đề cử—Giải Emmy cho nữ diễn viên phụ xuất sắc trong một phim điện ảnh
Đề cử—Giải Quả cầu vàng cho nữ diễn viên xuất sắc nhất trong phim truyền hình
Đề cử—Giải của Nghiệp đoàn diễn viên màn ảnh cho nữ diễn viên xuất sắc trong phim truyền hình
2008 Trick 'r treat Laurie
2009 Courageous Heart of Irena Sendler, TheThe Courageous Heart of Irena Sendler Irena Sendler Đề cử—Giải Quả cầu vàng cho nữ diễn viên xuất sắc nhất trong phim truyền hình
2010 Open House Jennie
2010 Romantics, TheThe Romantics Lila
2011 Margaret Lisa Cohen
2011 Scream 4 Rachel Milles[13] Cameo
Truyền hình
Năm Tên Vai diễn Chú thích
2008–
tới nay
True Blood Sookie Stackhouse 36 tập
Giải Quả cầu vàng cho nữ diễn viên kịch truyền hình xuất sắc nhất (2008)
Giải Vệ tinh cho nữ diễn viên kịch truyền hình xuất sắc nhất
Đề cử —Giải Quả cầu vàng cho nữ diễn viên kịch truyền hình xuất sắc nhất (2009)

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Crisell, Luke (ngày 21 tháng 5 năm 2007). “Rogue Star”. New York Magazine. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2007.
  2. ^ “X Appeal”. London: Guardian Unlimited. ngày 6 tháng 8 năm 2000. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2007.
  3. ^ “Anna Paquin Biography (1982–)”. filmreference.com. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2007.
  4. ^ “X Patriate Anna Paquin”. NZHerald.co.nz. tháng 5 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2007.
  5. ^ a b Verhaeghe, Melanie (Summer 1994). “Twinkle, Twinkle, Little Star”. Homemakers magazine.
  6. ^ a b c Dutka, Elaine (ngày 11 tháng 1 năm 1994). “A Young Star is Born in the Piano”. Los Angeles Times. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2011.
  7. ^ Hobson, Louis B. (ngày 2 tháng 9 năm 1996). “Real-Life Acting Difficult for Paquin”. Calgary Sun.
  8. ^ “Verizon and MCI Close Merger, Creating a Stronger Competitor for Advanced Communications Services”. New York. ngày 6 tháng 1 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2011.
  9. ^ Lambert, Pam (ngày 16 tháng 4 năm 1996). “Paquicking it in”. People. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2011.
  10. ^ “ifilmalliance.com”. ifilmalliance.com. ngày 25 tháng 8 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
  11. ^ “Paquin Bites Into True Blood. scifi.com. ngày 26 tháng 2 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2011.
  12. ^ “Academy Award And Recent Golden Globe Award Winner Anna Paquin Stars in 'The Courageous Heart of Irena Sendler,' A New "Hallmark Hall Of Fame" Presentation to Be Broadcast Sunday, April 19 on the CBS Television Network”. CBS press release via TheFutonCritic.com. ngày 12 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
  13. ^ a b “Anna Paquin and Kristen Bell to appear in 'Scream 4'. USA Today. ngày 25 tháng 8 năm 2010.
  14. ^ “Winners list at”. Theatreworldawards.org. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
  15. ^ "True Blood's True Romance", TV Guide, ngày 24 tháng 2 năm 2009
  16. ^ Silverman, Stephen M. (ngày 5 tháng 8 năm 2009). “Anna Paquin & Stephen Moyer Are Engaged! – Engagements, Anna Paquin, Stephen Moyer”. People.com. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
  17. ^ Silverman, Stephen (ngày 5 tháng 8 năm 2009). 'True Blood' stars get engaged”. CNN/People Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2009.
  18. ^ "'True Blood' Co-Stars Get Hitched", NBC New York. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2010.
  19. ^ "Interview with a Vampire: Stephen Moyer is Feasting on 'True' Fame" Retrieved on ngày 20 tháng 7 năm 2009.
  20. ^ "Exclusive: Anna Paquin and Stephen Moyer Get Married!" Retrieved ngày 22 tháng 8 năm 2010.
  21. ^ Singh, Anita (ngày 1 tháng 4 năm 2010). “True Blood star Anna Paquin comes out as bisexual”. The Daily Telegraph. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2010.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Sự hình thành Teyvat dưới thời của vị thần đầu tiên và vị thần thứ hai
Sự hình thành Teyvat dưới thời của vị thần đầu tiên và vị thần thứ hai
Tất cả những thông tin mà ta đã biết về The Primordial One - Vị Đầu Tiên và The Second Who Came - Vị Thứ 2
[Chap 2] Cậu của ngày hôm nay cũng là tất cả đáng yêu
[Chap 2] Cậu của ngày hôm nay cũng là tất cả đáng yêu
Truyện ngắn “Cậu của ngày hôm nay cũng là tất cả đáng yêu” (phần 2)
Limerence - Có lẽ đó không chỉ là crush
Limerence - Có lẽ đó không chỉ là crush
I want you forever, now, yesterday, and always. Above all, I want you to want me
[Review sách] Tàn ngày để lại: Còn lại gì sau một quá khứ huy hoàng đã mất
[Review sách] Tàn ngày để lại: Còn lại gì sau một quá khứ huy hoàng đã mất
Trong cuộc phỏng vấn với bà Sara Danius - thư ký thường trực Viện Hàn lâm Thụy điển, bà nói về giải thưởng Nobel Văn học dành cho Kazuo