Bánh gạo là tên gọi chỉ chung các loại bánh mặn và bánh ngọt được làm từ bột gạo. Một chiếc bánh gạo bất kỳ làm từ bất cứ loại gạo nào đã được định hình, cô đặc hoặc kết hợp thành một loại duy nhất có vị ngọt hoặc mặn hoặc tự nhiên. Một loạt các loại bánh gạo tồn tại ở nhiều nền văn hóa khác nhau trong đó gạo thường được nấu để ăn, và đặc biệt phổ biến ở châu Á. Các biến thể phổ biến bao gồm bánh làm từ bột gạo có những loại làm từ gạo xay và những loại làm từ ngũ cốc nguyên hạt được nén lại với nhau hoặc kết hợp với một số hợp chất liên kết khác.
Về nguồn gốc bánh gạo có giả thiết cho rằng nó xuất xứ từ Trung Quốc, có thể là một loại bánh nếp dẻo hay bột gạo xay ra, hồ bột lên và cho nhân vào gói lại bằng lá. Sau này được du nhập vào các nước châu Á khác.
Ngày nay, người Trung Quốc ăn mừng năm mới với cơm nắm, kẹo gạo, và bánh gạo truyền thống làm bằng gạo hấp trong nhiều giờ và trộn với sữa, đường, mỡ lợn hoặc dầu ăn, và bột nhão có hương vị như chà là hoặc đậu. Bánh thành phẩm có thể được chiên, nướng, hoặc luộc. Trong thời kỳ huy hoàng của Đế quốc Anh, gạo được trồng ở Ấn Độ, Trung Quốc và Đông Nam Á đã được nhập khẩu sang Anh và châu Âu và trở thành nền tảng cho nhiều loại thực phẩm yêu thích bao gồm cả bánh gạo. Truyền thống bánh gạo được mượn dưới dạng bánh kếp mang gạo, được gọi là bánh tráng (cho món nướng). Công nghệ chế biến bánh gạo cũng được tân tiến hơn, không cần phải làm thủ công cho tốn sức mà hoàn toàn làm theo cách truyền thống nếu văn hóa đó là truyền thống qua bao thế hệ không gì vứt bỏ được. Sau khi gạo được xay, nó được đặt trong một chiếc máy để tạo nên nhiều hình thù khác nhau lúc thưởng thức.
Lịch sử của bánh gạo phần lớn không có ghi chú cụ thể, nhưng nguyên tắc chung đã tồn tại có lẽ bởi vì gạo đã được thu hoạch và thưởng thức vì lợi ích dinh dưỡng của nó. Gạo đã được trồng hơn 7.000 năm. 19 loài của loaị cây này thuộc họ cỏ phát triển tốt nhất ở vùng khí hậu ấm áp và ẩm ướt; và lúa có lẽ được trồng đầu tiên ở miền Nam Trung Quốc hoặc Bắc Thái Lan. Từ Đông Nam Á, ngành trồng trọt của nó di cư khắp các khu vực có khi hậu ấm áp hơn ở Châu Á, Nam Âu và cuối cùng là toàn cầu như ngày nay. Hơn một nửa nhân loại phụ thuộc vào gạo như là lương thực và ngũ cốc chính của họ. Cũng như là một nguồn carbohydrate phức tạp, gạo có giá trị dinh dưỡng đáng kể. Cám (một lớp giữa hạt và vỏ trấu được loại bỏ trong chế biến để tạo ra gạo trắng và để lại trong gạo nâu) chứa chất xơ, dầu, khoáng chất, protein và vitamin bao gồm E, K và B-phức tạp. Bánh gạo như một loại thực phẩm có một lịch sử lâu dài ở Trung Quốc. Năm 1974, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra những hạt gạo được bảo quản hoàn toàn trong tàn tích của văn hóa Hà Mỗ Độ, Chiết Giang. Nó chỉ ra rằng sớm nhất là bảy ngàn năm trước, tổ tiên của chúng ta đã bắt đầu trồng lúa. Bánh gạo đã có rất nhiều cái tên như là "Er", "Ci" và "Dao Bing" từ thời nhà Hán. Trong một cuốn sách thổ ngữ được viết bởi Dương Hùng, một nhà văn thời nhà Hán, tên của "Gao" đã được sử dụng. Tên này trở nên phổ biến trong thời nhà Ngụy và nhà Tấn.
Công thức nấu ăn của Shi thế kỷ thứ 6 ghi lại một phương pháp nấu ăn được gọi là đường trắng kén đường. Sau khi gạo nếp được hấp, giã gạo bằng cối và chày cho đến khi nó trở nên rất dính. Sau đó, xôi được cắt thành miếng nhỏ như quả óc chó. Sau khi các mảnh này được sấy khô, chúng được đốt bằng dầu. Cuối cùng, chúng được lăn qua đường và có thể ăn được. Quay trở lại thời nhà Liao, người ta nói ăn bánh gạo vào ngày Tết âm lịch của Trung Quốc là một phong tục. Đến triều đại nhà Minh và nhà Thanh, bánh gạo đã phát triển thành nguồn cung cấp đồ ăn nhẹ quanh năm trên thị trường, và có những hương vị khác nhau của bánh gạo miền Bắc và bánh gạo miền Nam.
Bánh gạo ở nhiều biến thể được biết đến ở một số quốc gia. Chúng có lẽ được biết đến nhiều nhất ở Nhật Bản và các quốc gia ở Vành đai Thái Bình Dương, nơi sản xuất lúa gạo là một mặt hàng kinh tế và ngũ cốc là cơ sở cho nhiều bữa ăn và thực phẩm. Các dạng bánh làm từ gạo nếp đã phổ biến ở Nhật Bản trong hàng trăm năm. Bánh có tên mochi là một loại bánh giầy được giới quý tộc ăn trong thời kỳ Nara từ năm 710-794 trước Công nguyên khi người Trung Quốc ảnh hưởng rất lớn đến Nhật Bản. Có giả thiết cho rằng, bánh giày của người Việt Nam không phải do Lang Liêu làm ra trong thời Văn Lang, mãi về sau trong sự tích bánh giầy của Lang Liêu thì mới xuất hiện bánh giầy, vì người Nhật có sự tích Thỏ Ngọc giã bột làm bánh giầy trên cung trăng vào dịp Trung thu. Chính vì giả thiết đó nên mới có tập tục giã bột làm bánh giầy mochi nên nguồn gốc bánh dày xuất phát từ đất nước Mặt trời mọc.
Quá trình làm mochi có nguồn gốc từ Trung Quốc, nơi gạo nếp đã được trồng và sử dụng trong hàng ngàn năm. Một số bộ lạc thổ dân Trung Quốc đã sử dụng quy trình này như một phần của truyền thống của họ. Trong văn hóa dân gian, nghi lễ mochitsuki đầu tiên xảy ra sau khi Kami được cho là đã xuống Trái Đất, diễn ra sau khi trồng lúa ở Yamato trong thời kỳ Yayoi (300 trước Công nguyên - 300 sau Công nguyên). Gạo đỏ là biến thể ban đầu được sử dụng trong sản xuất mochi. Vào thời điểm này, nó đã được hoàng đế và quý tộc ăn độc quyền do địa vị của nó là điềm may mắn. Trong thời kỳ Heian Nhật Bản (794 - 1192 sau Công nguyên), mochi đã được sử dụng như một "thức ăn cho các vị thần" và trong các lễ vật tôn giáo trong các nghi lễ Thần đạo được thực hiện bởi các quý tộc. Ngoài may mắn chung, mochi còn được biết đến như một lá bùa hộ mệnh cho những cuộc hôn nhân hạnh phúc.
Các giả thiết đầu tiên được ghi lại về mochi được sử dụng như một phần của lễ hội năm mới là từ thời Heian Nhật Bản. Các quý tộc của triều đình tin rằng những sợi mochi tươi được làm mới tượng trưng cho cuộc sống lâu dài và hạnh phúc, trong khi mochi khô giúp củng cố răng của một người. Các tài khoản của nó cũng có thể được tìm thấy trong cuốn tiểu thuyết lâu đời nhất của Nhật Bản, Câu chuyện về Genji.
Mochi tiếp tục là một trong những thực phẩm truyền thống được ăn trong dịp Tết của Nhật Bản, vì nó được bán và tiêu thụ rất nhiều trong khoảng thời gian này. Một loại đặc biệt, được gọi là kagami mochi (mochi gương), được đặt trên bàn thờ gia đình vào ngày 28 tháng 12 mỗi năm. Kagami mochi bao gồm hai khối mochi xếp chồng lên nhau, trên cùng là một quả cam (daidai). Trong dịp này, ban đầu được thực hiện bởi samurai, những chiếc bánh dày kagami mochi sẽ bị phá vỡ, do đó tượng trưng cho việc mở gương và kết thúc lễ mừng năm mới. Ngoài tập tục giã bánh dày mochi, người Nhật còn xay gạo nếp thành bột hay phát minh ra máy làm mochi tự động, chỉ cần cho gạo nếp vào máy sẽ thao tác như một người thợ giã bánh.
Ngoài mochi thì senbei (煎餅) là một loại bánh gạo của Nhật Bản. Nó là loại bánh khô, được chế biến từ bột gạo hoặc bột mì, rồi được đem nướng chín trong lò hoặc trên bếp than củi. Có nhiều hình dạng, kích thước, và hương vị, thơm ngon nhưng thông thường mang hương vị ngọt ngào của gạo. Senbei thường ăn kèm với trà xanh như một món ăn giản dị cho các quan khách đến nhà xem như một cách giải khát lịch sự. Senbei là tên gọi chung của những chiếc bánh khô truyền thống của Nhật Bản.
Món này có xuất xứ từ Trung Quốc và du nhập vào Nhật Bản từ thời kì Nara. Những chiếc bánh Senbei ở thời kì này còn khá đơn giản, chỉ được làm từ bột mì và đường. Đến thời kì Edo hay thời kì Tokugawa, Senbei đã có nhiều sáng tạo trong phương pháp chế biến. Xuất hiện nhiều loại bánh Senbei với nhiều hương vị hơn, hình dáng khác nhau. Từ đó cũng hình thành hai loại Senbei làm từ bột mì và Senbei làm từ bột gạo. Bánh gạo Senbei đến với Nhật Bản trong khoảng thời gian triều đại nhà Đường ở Trung Quốc (618-907). Nhưng theo sử sách ghi lại bánh Senbei đã được chế biến tại Trung Quốc vào năm 737 sau công nguyên bao gồm các thành phần như khoai tây, bột mì và gạo nếp; giống y chang bánh Castella khác biệt rõ ràng với bánh Senbei mà chúng ta được thấy ngày nay. Tại Việt Nam, bánh gạo senbei nổi tiếng nhất vẫn từ công ty One one, hương vị phù hợp khẩu vị người Việt như vị đường ngọt, vị xì dầu mật ong hay vị mặn của tôm nướng.
Người Nhật có hai loại senbei:
Senbei làm từ bột mì: Đây là loại Senbei truyền thống của vùng Kansai. Nó được chế biến từ bột mì, đường và trứng gà, có vị giống với bánh quy. Senbei làm từ gạo: Loại Senbei này được sản xuất chủ yếu tại vùng Kanto - vùng sản xuất lúa gạo chủ yếu của Nhật Bản, phần lớn loại Senbei này có vị hơi mặn. Senbei gạo thường được chế biến bằng cách trộn đều bột gạo với nước ấm. Bột sẽ được nhào thật kĩ và hấp chín ngay sau đó. Hấp xong bột được nhào lại một lần nữa rồi được cuốn lại thành những cuộn lớn.
Sau đó, khối bột sẽ được cán mỏng và cắt thành hình, hình dạng truyền thống thường là hình vòng tròn. Bột bánh có thể kết hợp với một số nguyên liệu thích hợp như các loại hạt, đỗ, rong biển... tạo nên nhiều hương vị đặc trưng của các loại bánh Senbei. Những chiếc bánh khi đã được cắt thành hình sẽ được phơi khô dưới ánh nắng mặt trời. Cuối cùng những chiếc bánh này sẽ được nướng chín tên bếp than củi. Bánh sẽ được phết hỗn hợp nước tương và mirin, một lớp rong biển khô có thể được phủ bên ngoài bánh làm hương vị bánh thêm phần hấp dẫn. Và cách chế biến Senbei còn có thể thay đổi tùy theo từng loại Senbei khác nhau. Ngoài cách nướng trên bếp than củi, người thợ làm bánh còn sử dụng những chiêc kẹp 'kata' với nhiều hình dạng và kích thước để nướng và tạo hình cho Senbei. Senbei được du nhập vào Triều Tiên, người Hàn Quốc gọi senbei là chamssal (참쌀).
Dango (団子, Hán Việt: Đoàn tử) là một loại bánh trôi của ẩm thực Nhật Bản được làm từ bột nếp (mochiko), tương tự như bánh dày Nhật Bản mochi (餅, bính). Bánh này thường được ăn với trà xanh. Đoàn tử được ăn quanh năm, tuy nhiên theo truyền thống mỗi giai đoạn nhất định trong năm sẽ ăn một loại đoàn tử khác nhau. Người ta thường xiên 3, 4 viên đoàn tử vào que tre.
Từ công thức của bánh mochi xứ phù tang xâm nhập tới bán đảo Triều Tiên, gọi là tteok. Bánh Tteok có rất nhiều loại và cùng với đó là rất nhiều tên gọi. "Từ được dùng nhiều nhất trong tên gọi của bánh Tteok là "pyeon" nghĩa là "phiến". Đây là một từ tiếng Hán có nghĩa là "tấm", hay nó còn có ý nghĩa là nhỏ và phẳng" Ví dụ như "Songpyeon" là bánh Tteok nhỏ với hương thơm của lá thông[1], "Jeolpyeon" là bánh được cắt ra từ những chiếc bánh Tteok nặn hình phẳng...Tiếp nữa, tuỳ theo các nguyên liệu bên trong nhân bánh Tteok mà tên gọi của bánh Tteok cũng rất đa dạng, như "Susutteok" (bánh Tteok nhân kê), "Pattteok" (bánh Tteok nhân đậu đỏ), "Chapsaltteok" (bánh dầy được làm lại từ mochi Nhật)... Qua một số ví dụ trên, "ngoài chữ "pyeon" xuất phát từ chữ Hán, chữ "Tteok" có thể được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, chữ "Tteok" là một từ thuần Hàn chỉ loại bánh được làm từ gạo, với ý nghĩa này, "Tteok" có thể được dịch là "bánh dày". Thứ hai, chữ "Tteok" còn có thể được hiểu như cách làm món bánh từ gạo với các loại nguyên liệu khác.
Trước thời Tam Quốc, nguyên liệu chủ yếu được dùng để làm Tteok là các loại lương thực và ngũ cốc mà người dân trồng và thu hoạch. Qua đó ta thấy người Triều Tiên đã biết làm thức ăn từ bột của các loại lương thực và ngũ cốc, hấp chín trong nồi đất để ăn từ rất sớm. Đến thời Tân La thống nhất, xã hội dần trở nên ổn định hơn và nền nông nghiệp với trọng tâm là việc trồng lúa cũng ngày càng được phát triển. Vì vậy trong thời kì này, việc làm bánh Tteok với nguyên liệu chủ yếu là gạo nếp ngày càng trở nên phổ biến hơn. Thời Cao Ly không chỉ được biết đến là thời kì có rất nhiều các loại Tteok đa dạng, mà đây còn là thời kì mà bánh Tteok chiếm một vị trí rất quan trọng và có quan hệ mật thiết với cuộc sống sinh hoạt của cư dân. Một số loại bánh Tteok là: Sutan, Jongaepyeong, Yulgo.... Trong cuốn "Lịch sử Goryeo" cũng nói đến việc ăn bánh "Jongaepyeong" vào ngày "sangsa" và ăn bánh "Sutan" vào dịp rằm tháng 6, cho thấy bánh Tteok đã dần dần chiếm được vị trí như một món ăn trong các dịp lễ tết của dân tộc.
Bước sang thời Choson, cùng với sự phát triển của kĩ thuật sản xuất và các phương pháp gia công chế biến trong nông nghiệp, văn hoá ẩm thực của người dân Hàn Quốc cũng ngày càng phát triển. Theo đó, các loại bánh Tteok và mùi vị của bánh cũng ngày càng trở nên đa dạng và phong phú. Đặc biệt bánh Tteok ngày càng được phát triển để phục vụ riêng cho quần chúng hay cho những tầng lớp thượng lưu. Khác với loại bánh Tteok thuần tuý đầu tiên chỉ được làm từ bột gạo hay bột ngũ cốc hấp chín, các loại bánh Tteok này được kết hợp giữa các loại ngũ cốc khác nhau cùng với các loại trái cây, hoa, cây cỏ hoang dã, hay các loại thuốc, đã đem lại sự biến hoá đa dạng về hình dáng cũng như màu sắc. Một số loại bánh Tteok tiêu biểu thời kì này là: "Pamsolki" (bánh nhân hạt dẻ), "Ssuksolki" (bánh nhân ngải), "Seoktanpyeong" (bánh dày nhân hạt thông, táo tàu trộn vào rồi rắc đậu đỏ lên), "Tohaengpyeong" (bánh dày từ bột nếp trộn với nước đào ép rồi hấp lên), "Kkulsolki" (bánh mật ong), "Sokipyeong" (bánh nấm), "Mutteok" (bánh củ cải), "Songkitteok" (bánh làm từ bột gạo và vỏ thông non), "Sangjapyeong" (bánh làm từ bột gạo tẻ, hạt dẻ và mật ong), "Sansampyeong" (bánh nhân sâm núi), "Kamjapyeong" (bánh khoai tây).....
Bánh giầy của Việt Nam có liên quan đến truyền thuyết Lang Liêu[2], tương truyền xảy ra vào đời vua Hùng thứ 6. Theo đó, vị hoàng tử Lang Liêu đã được báo mộng để làm ra chiếc bánh giầy hình tròn, tượng trưng cho trời, còn bánh chưng hình vuông tượng trưng cho đất; hai thứ này được dùng để dâng lên vua cha trong ngày đầu xuân. Ngoài việc lý giải nguồn gốc của bánh chưng, bánh giầy, sự tích trên nhắc nhở con cháu về truyền thống của dân tộc và tầm quan trọng của cây lúa và thiên nhiên trong nền văn minh lúa nước Bắc Bộ. Còn với người miền Nam bánh chưng dài gọi là bánh tét mà các dân tộc miền núi gọi là bánh tày. Phương thức nấu gạo nếp giã bột làm bánh không chỉ có ở Nhật Bản hay Triều Tiên, Việt Nam gọi là cách tạo bột từ xôi (gạo nếp). Xôi được đồ chín và giã mịn thành bột. Phương pháp làm bánh này tạo nên độ dẻo quánh đặc biệt khiến không thể định hình bánh bằng cách đổ khuôn, mà khi vắt bánh, do bột còn nóng ấm, người ta thường vo tròn rồi để lên lá chuối và bánh tự chảy dẹt xuống, nên có độ tròn vành rất chuẩn. Bánh dày cho đến ngày nay vẫn mang tính bảo thủ truyền thống cổ xưa, không hề cải biên, nên không có nhân và được ăn với giò lụa hay chả chiên. Nghĩa là cần xếp bánh dày vào thể loại bánh mặn. Do đặc điểm tạo bột từ xôi, nên bánh dày là loại thức ăn tươi trong ngày, chứ không để lâu được để có thể xuất khẩu như bánh mochi.
Một số sách vở cho rằng bánh tét là sản phẩm của sự giao thoa nhiều nền văn hóa khác nhau tại miền Nam. Trong đó, chủ đạo là văn hóa Chăm với tín ngưỡng "phồn thực". Hình dạng bánh tét là hình tượng Linga. Nó không chỉ là món ăn ngày Tết mà còn chứa đựng cả thuyết âm dương, tam tài, ngũ hành với năm màu sắc: màu xanh của lá gói bánh (lá dứa, lá dong hoặc lá chuối), của nếp được bỏ màu khi gói, màu vàng đậu xanh nhân bánh, hai màu đỏ, trắng của thịt ba chỉ làm nhân bánh và màu đen của tiêu trộn vào nhân đậu xanh hoặc ướp thịt nhân bánh. Đó là năm màu của ngũ hành trong triết học phương Đông: hỏa (màu đỏ), thủy (màu đen), mộc (màu xanh), kim (màu trắng), thổ (màu vàng). Một truyền thuyết khác bổ sung thêm cho nguồn gốc của bánh tét, cách gọi tên bánh và thói quen ăn bánh tét trong ngày Tết được kể như sau:
Vào mùa xuân Kỷ Dậu năm 1789, Nguyễn Huệ và quân ta đánh đuổi quân Thanh ra khỏi đất nước. Lúc bấy giờ quân lính được nghỉ ngơi, ăn Tết. Trong số quân lính có anh lính nọ được người nhà gửi cho món bánh làm từ gạo nếp, nhân đậu xanh, hình dạng như bánh tét ngày nay (tuy nhiên lúc bấy giờ chưa có tên gọi). Anh lính mang bánh mời vua Quang Trung.
Vua ăn thấy ngon bèn hỏi thăm về loại bánh này. Anh lính kể, bánh do người vợ ở quê nhà làm gửi cho. Mỗi lần ăn bánh, anh càng thương, càng nhớ vợ nhiều hơn. Anh mắc chứng đau bụng (có thể xem là đau dạ dày) nhưng khi ăn bánh này thì lại không thấy đau nữa.
Nghe câu chuyện cảm động của anh lính, vua bèn ra lệnh cho mọi người gói loại bánh này để ăn Tết và đặt tên là bánh Tết nhằm ghi nhớ chiến thắng giặc Thanh vào mùa xuân và thể hiện tình cảm gia đình thắm thiết mỗi độ xuân về. Đó được xem là nguồn gốc của bánh tét trong ngày Tết cổ truyền.
Bánh nếp nhân đậu xanh ngọt hay mặn gói trong lá chuối có lẽ bắt nguồn từ Trung Hoa. Đó là loại bánh nếp đậu gói trong lá tre của người Trung Quốc thường hay làm vào dịp tết Đoan Ngọ. Theo truyền thuyết Trung Hoa, món bánh này xuất hiện là để tưởng nhớ ngày mất của Khuất Nguyên (ngày 5.5.278 TCN). Đến ngày này, người dân Trung Quốc ở bên dòng sông Mịch La thường tổ chức cúng giỗ ông bằng lễ hội thuyền rồng trên sông và thả những chùm bánh có buộc chỉ ngũ sắc bên ngoài. Hai loại bánh thường được thả trong lễ hội là bánh zongzi (bánh tro) và bánh Jiandui (bánh rán mè). Kỹ thuật làm bánh zongzi: Sản phẩm ban đầu chỉ là gạo nếp ngâm trộn đậu đỏ, gói nhỏ hình chóp bằng lá tre. Sau khi luộc chín, bên trong tương tư một món xôi đỗ của Việt Nam. Ngày nay, bánh zongzi đã được cải thiện, có thêm nhân nấm với thịt ba chỉ. Còn với Việt Nam, bánh nếp gói trong lá chuối là bột nếp đem xay thành bột mịn, hoà với nước rồi nhào dẻo, sau đó bao nhân và gói lá. Từ bánh zongzi (tức bánh ú của Trung Quốc, Việt Nam có thứ bánh gọi là bánh gio (phương ngữ Bắc Bộ) hay bánh tro nước tro (còn gọi là nước nẳng) pha chế từ tro than thu được sau khi đốt cháy một số loại thảo mộc, dược liệu. Hay là bánh gai miền Bắc hay bánh ít lá gai Nam Bộ, bột nếp trược trộn với nước nấu từ cây gai.
Bánh gạo Campuchia có phần khác biệt so với các quốc gia khác. Người Campuchia làm bánh bằng gạo nếp.
Người Thái Đen ở Loei có loại bánh nếp tên là ขนมหมก, bánh nhỏ hơn bánh nếp Việt Nam, cũng gói trong lá chuối và nhân đậu xanh ngọt là phổ biến nhất.
Bánh gạo là một món ăn nhẹ phổ biến ở Philippines và người Philippines đã tạo ra nhiều loại khác nhau. Trong tiếng Philipin, các món tráng miệng (chủ yếu là các loại có nguồn gốc từ gạo) được gọi là kakanin, bắt nguồn từ từ kanin, có nghĩa là "gạo đã chuẩn bị". Bánh gạo trước đây được biết đến bởi thuật ngữ chung tinapay (nghĩa đen là "lên men với tapay"), nhưng thuật ngữ này hiện bị giới hạn trong bánh mì ở Philippines hiện đại. Tuy nhiên, hai loại bánh gạo chung vẫn còn: puto cho bánh gạo hấp và bibingka cho bánh gạo nướng. Cả hai thường được chuẩn bị bằng cách sử dụng galapong, một loại bột gạo sền sệt có nguồn gốc từ gạo nếp chưa nấu chín đã được ngâm qua đêm. Galapong thường được lên men, như thuật ngữ cũ ngụ ý.
Một số ví dụ về bánh gạo tráng miệng truyền thống của Philippines bao gồm:
Mache (cũng được đánh vần là matse) là những hạt gạo nếp luộc có hương vị của lá nếp và dừa.
Một số bánh gạo này có thể được coi là mặn Chẳng hạn, Putong bigas, loại puto phổ biến nhất, theo truyền thống được kết hợp với món hầm máu lợn hầm của dinuguan. Bibingka galapong cũng có thể được phủ lên trên bằng thịt hoặc trứng. Bên cạnh những thứ này, bánh gạo không tráng miệng được ăn như một món ăn kèm cho các bữa ăn mặn cũng tồn tại, phổ biến nhất là bánh puso.
Kiping là một loại bánh gạo mỏng giống như bánh wafer được đúc độc đáo từ lá thật. Thường ăn nhúng với giấm, nhưng có thể ăn như một món tráng miệng với đường.
Ở Indonesia bánh gạo có thể là đồng bằng và nhạt nhẽo, và thường được coi là một loại lương thực, như là một thay thế cho gạo hấp.
Nasi himpit, có thể được tìm thấy ở Indonesia và Malaysia. Không giống như ketupat hoặc lontong, nasi himpit không được nấu trong một gói. Thay vào đó, gạo đã được đun sôi hoặc hấp được giã trong cối thành bột nhão sau đó được đúc và cắt thành khối lập phương trước khi ăn. Nó thường được ăn với Sayur lodeh hoặc Soto.
Vô số loại kue Indonesia (bánh truyền thống) được làm bằng gạo nếp hoặc bột gạo. Chúng có thể ngọt hoặc mặn. Chúng bao gồm:
Mochi được làm từ gạo nếp giã thành bột nhão và nặn thành hình. Ở Nhật Bản, theo truyền thống, nó được thực hiện trong một buổi lễ gọi là mochitsuki. Mặc dù cũng được ăn quanh năm, mochi là bánh dày truyền thống cho năm mới của Nhật Bản và thường được bán và ăn trong thời gian đó. Mochi cũng là một món ăn nhẹ du nhập vào tất cả các quốc gia trên thế giới, trong đó có cả Việt Nam.
Có những loại mochi sau:
Daifuku có nhiều loại. Loại phổ biến nhất là viên mochi màu trắng (hoặc xanh lá nhạt từ bột matcha, hoặc hồng phớt) với nhân anko. Có hai cỡ: một loại có đường kính bằng một nửa đồng xu 1 đô la, loại kia to bằng nắm tay. Vài loại Daifuku có thêm các miếng trái cây, các hỗn hợp trái cây và anko hoặc dưa xay (dưa gang,...). Hầu như tất cả các loại Daifuku đều được bọc bởi một lớp bột bắp hoặc bột khoai tây mịn (hoặc bột nếp rang) để chúng không dính vào nhau vào tay người làm. Một vài loại được bao bằng đường bột hoặc bột cacao. Mặc dù Daifuku được thực hiện thông qua nghi lễ giã bánh tên là mochitsuki, nhưng người ta cũng có thể làm chúng đơn giản bằng cách nấu trong lò vi sóng. Mochi và Daifuku rất phổ biến ở Nhật Bản.
Kinako mochi – loại bánh dày bọc đỗ. Ở ngoài vỏ bánh sẽ được bọc một lớp bột đỗ tương sau khi bánh dày được nướng và ngâm vào hỗn hợp của xì dầu, nước và đường.
Loại bánh này có hai cách làm chia thành hai trường phái dù vẫn gọi chung là sakuramochi nhưng thường sẽ gọi tên để phân biệt vì hình dáng khác nhau là Chōmeiji (長命寺, ちょうめいじ và Dōmyōji (道明寺, どうみょうじ).
Bánh gạo hấp trong nồi hấp bằng đất nung là thực phẩm chính lâu đời nhất của người Hàn Quốc trước khi gạo nếp tiếp quản phát minh ra nồi sắt. Bây giờ, có hàng trăm loại bánh gạo Hàn Quốc khác nhau hoặc "tteok" ăn quanh năm. Ở Hàn Quốc, người ta thường ăn tteok guk (súp tteok) vào ngày đầu năm và tteok ngọt trong đám cưới vào ngày sinh nhật. Nó thường được coi là một món ăn kỷ niệm và có thể từ các phiên bản khá phức tạp hoặc xuống đến tteok có hương vị đơn giản. Bánh dày tteok được chọn cho những dịp đặc biệt tùy thuộc vào màu sắc và vai trò của chúng trong vũ trụ âm dương truyền thống của Hàn Quốc.
Sri Lankan Edit Idli, có nguồn gốc từ Nam Ấn Độ, nó là một loại bánh gạo thơm ngon được ăn phổ biến cho bữa sáng. Puttu, có nguồn gốc từ Nam Ấn Độ, nó được tiêu thụ rộng rãi trong cả nước. Nó là một hình trụ làm từ gạo hấp và dừa. Seenakku, một loại bánh gạo làm từ gạo nếp và ăn kèm với dừa nạo, nó có nguồn gốc từ nian gao Trung Quốc.
Put chai ko (tiếng Trung: 缽 仔 hoặc 砵 仔 糕;Bính âm: butjái gōu) còn gọi là bánh đúc đậu đỏ - một món ăn nhẹ phổ biến ở Hồng Kông. Bánh có kích thước lòng bàn tay và có vị ngọt. Nó mềm, nhưng có thể giữ hình dạng đúc của nó bên ngoài một cái bát. Bánh được làm từ đường trắng hoặc nâu, bột gạo hạt dài với một ít tinh bột lúa mì hoặc bột ngô. Đôi khi đậu đỏ cũng được thêm vào. Bột được đổ vào bát sứ và hấp cho đến khi chín qua. Sau đó, nó được làm mát và phục vụ ở nhiệt độ phòng. Theo truyền thống, người bán hàng rong nhét hai xiên tre vào bánh để biến nó ra và người ăn giữ xiên để tiêu thụ. Nhưng ngày nay, hầu hết Put chai ko được bán trong túi nhựa .