Bản đồ địa hình trong đồ bản hiện đại, là loại bản đồ biểu diễn chi tiết và định lượng các đặc trưng của địa hình địa vật theo một hệ tọa độ địa lý xác định.
Định nghĩa truyền thống đòi hỏi một bản đồ địa hình phải hiển thị các chi tiết của cả thiên nhiên và con người tạo ra. Định nghĩa hiện đại thì do Trung tâm Thông tin Canada đưa ra: Bản đồ địa hình là biểu diễn đồ họa đầy đủ và chính xác các chi tiết văn hóa và tự nhiên trên mặt đất.[1]
Trên Bản đồ địa hình, bề mặt đất liền và đáy biển của Trái Đất được biểu diễn bằng các đường đồng mức, là đường nối các điểm có cùng độ cao xác định, và các đường đồng mức khác nhau thì không giao nhau. Các chi tiết khác thì biểu diễn bằng ký hiệu theo một quy ước nào đó, và ở các nước khác nhau thì thường không hẳn được thống nhất. Thiếu thống nhất cũng xảy ra trong lựa chọn hệ tọa độ địa lý và phương pháp chiếu, tức là cách chuyển tải tọa độ đối tượng trên mặt đất vốn cong lên mặt giấy phẳng.
Bản đồ địa hình thường được công bố như là một loạt tờ bản đồ, có thể gồm nhiều tấm bản đồ ghép lại. Các tấm này được đánh chỉ số (Index) sao cho nó đơn nhất trên toàn thế giới.
Bản đồ địa hình cũng có thể được lập cho các hành tinh và vệ tinh, tùy theo mức độ số liệu thu thấp được.
Phần chính của bản đồ địa hình là địa hình biểu diễn bằng đường đồng mức, có khoảng cao đều tùy thuộc địa hình và tỷ lệ bản đồ. Đường đồng mức gián đoạn ở các sườn dốc, núi đá,... Tại vùng đồng bằng có thể thêm các đồng mức phụ, chẳng hạn mức +2,5 m biểu diễn bằng nét đứt [2]. Các điểm cao hoặc điểm đặc trưng thường có giá trị độ cao ghi kèm.
Các vùng nước được xác định theo độ cao của mực nước trung bình, ví dụ mặt Biển Chết là -429 m, mặt hồ Ba Bể ở Việt Nam là +145 m, và từ đó xác định ra ranh giới vùng nước, hay đường bờ vùng nước. Vùng nước thường được tô màu lam nhạt (lam sáng màu), đôi chỗ có ghi giá trị độ cao. Mảng vùng nước không gắn với độ cao xác định, tức là mảng của một con sông thì độ cao mực nước có thể khác nhau, ví dụ như mực nước sông Hồng khác nhau tại Lào Cai và tại Nam Định.
Các đối tượng khác nhau được thể hiện trên bản đồ bằng các dấu hiệu hoặc biểu tượng, đôi khi kèm theo chữ tên hay kiểu đối tượng. Ví dụ, phân loại đường sá bằng kiểu vẽ đường và màu vẽ. Các suối có phân biệt theo mùa nước. Độ che phủ thực vật thì là mảng màu và biểu tượng nhóm cây kèm theo tên loại cây phổ biến ở đó, ví dụ "khộp".
Các dấu hiệu hoặc biểu tượng được chú giải ở ô chú giải, lập cho nhóm tấm bản đồ cho những đối tượng có trong nhóm đó, tức là có thể không có ở một vài tấm. Thường thì không đưa vào biểu tượng cho đối tượng không có ở vùng đó. Điều này dẫn đến thực tế biên tập biểu tượng đôi khi là theo thói quen của phái những người tham gia biên soạn. Ví dụ tại Việt Nam trên bản đồ 1:50000 đối tượng miếu thờ được biên tập chi tiết ở các tờ phía nam, nhưng ít thấy ở các tờ phía bắc.
Tỷ lệ của bản đồ là tỷ số giữa một khoảng cách đo trên bản đồ và khoảng cách ngoài thực địa. Nó thường biểu diễn ở dạng 1:M, với M chỉ khoảng cách thực tế lớn gấp bao nhiêu lần khoảng cách tương ứng đo trên bản đồ. Ví dụ bản tỷ lệ 1:50.000 thì 1 cm ứng với 500 m ngoài thực địa.
Bản đồ có tỷ lệ lớn thì càng chi tiết và tương ứng với số M nhỏ. Bản đồ tỷ lệ nhỏ kém chi tiết hơn và có số M lớn.
Độ chính xác tọa độ các địa vật được quy ước là 0,3 mm trên bản đồ, ví dụ ở tỷ lệ 1:100000 là 30 m. Tuy nhiên với đối tượng dạng đường hay đa giác thì ảnh hưởng của đồ hình làm nó không mang nhiều ý nghĩa.
Các bản đồ hiện đại là kết quả của một quá trình sản xuất phức tạp, bắt đầu với việc lập kế hoạch và thực hiện chuyến bay để chụp ảnh trên không. Các máy lập thể quang học hoặc số hóa, được sử dụng để chuyển đổi hình ảnh ra bản đồ theo hệ thống tọa độ ấn định.
Ảnh vệ tinh đang thay thế dần ảnh máy bay. Kết quả được kết hợp kế thừa các thông tin bản đồ đã có, để cho ra phiên bản mới phù hợp thực tế hơn. Công nghệ mới cho ra dữ liệu số hóa.[3]
Nguồn dữ liệu tên các đối tượng, trong đó có địa danh, vốn là vấn đề phức tạp. Nó được biên tập theo quy tắc "tốt nhất có thể", và do đó được chia ra các nhóm nguồn:
Tại Việt Nam trước đây các tên phần lớn kế thừa từ bản đồ do người Pháp lập cho Đông Dương thời những năm 1940 về trước. Hiện nay cơ sở dữ liệu "tên" được coi là đầy đủ cho vùng. Tuy nhiên hoạt động "nhập vào, tách ra, chuyển đơn vị, nâng hạ cấp hành chính" diễn ra liên miên, nên bản đồ vừa lập ra đã bị lạc hậu về hành chính.
Từ năm 2006 Bộ Tài nguyên và Môi trường đã biên tập và ban hành dần dần các bản quy chuẩn như "Danh mục lưu vực sông liên tỉnh" [4], "Danh mục địa danh dân cư, sơn văn, thủy văn, kinh tế - xã hội phục vụ công tác thành lập bản đồ" cho các tỉnh thành [5].
Trong thực tế các văn bản pháp quy này mắc nhiếu lỗi biên tập ở dạng nói ngọng và sai dấu, làm sai lệch tên gọi dẫn đến chúng chẳng thể làm quy chuẩn được. Ví dụ đối tượng "sông Nậm Nhé" (theo các bản đồ địa hình 2004) thì trong Danh mục sông liên tỉnh QĐ 1989/QĐ-TTg [6] và Danh mục địa danh tỉnh Lai Châu [7] viết là "Nậm Nhè", còn trong Danh mục địa danh tỉnh Điện Biên [8] lại viết là "nặm Nhé" trong khi tên các bản vẫn ghi là nậm. "Danh mục địa danh tỉnh Lai Châu" ghi đối tượng "suối Nùng Than" ở xã Vàng Ma Chải thành suối Lùng Thàn [7]. "Danh mục địa danh tỉnh Lào Cai" viết các đối tượng "ngòi Chỉ", "làng Chỉ" thành ngòi Trĩ, làng Trĩ [9].
Tại Việt Nam có hai cơ sở chính đảm trách thu thập và biên tập bản đồ:
Bản đồ địa hình gồm phần đồ họa chính, khung tọa độ và các chỉ dẫn. Nội dung chính thiên về mục đích quân sự và quản lý lãnh thổ, nên các địa vật ảnh hưởng tới tác chiến được ưu tiên thể hiện.
Bản đồ thường được biên soạn bằng ngôn ngữ chính thức của quốc gia xuất bản và lưu hành. Tuy nhiên khi hệ ký tự của ngôn ngữ có thể gây khó khăn trong sử dụng quốc tế, như tiếng Hoa, Lào, Thái,... hoặc khi biên soạn phần lãnh thổ của nước khác nhưng có để ý đến tính đa dụng, thì thường biên soạn đa ngữ. Phần lớn thường ghi kèm tên hoặc chỉ dẫn bằng chữ Latin, với cách chuyển tự do nước biên soạn quy định.
Tại Liên Hợp Quốc thì Nhóm chuyên viên về Địa danh Liên Hợp Quốc đảm trách việc quy chuẩn phiên âm và chuyển tự địa danh, đưa ra khuyến nghị về sử dụng quy chuẩn đó [11].
Bản đồ địa hình, đặc biệt là loại tỷ lệ lớn, biểu diễn đầy đủ và chính xác bề mặt Trái Đất, là dữ liệu cơ bản cho quản lý đất đai lãnh thổ, cho các nghiên cứu, điều tra khoa học, quy hoạch kinh tế, thiết kế và xây dựng các cơ sở kinh tế, giao thông, các đường ống dẫn,...
Bản đồ địa hình chính thức được cơ quan nhà nước xuất bản phục vụ lợi ích quốc gia, quốc phòng và an ninh công cộng. Tại nhiều nước, trong đó có Việt Nam, các bản đồ địa hình được coi là tài liệu mật. Tại Việt Nam dấu "MẬT" hiện vẫn có trong các bản in và bản điện tử. Trước năm 1980 bản đồ được sử dụng theo quy chế tài liệu mật, các bản hỏng phải được một hội đồng thanh lý, và các trường hợp đánh mất có thể gây phiền toái cho người dùng. Tuy nhiên hiện nay bản đồ được bán tràn lan.
Các dẫn xuất là bản đồ lược trích, được xuất bản để làm nền cho bản đồ chuyên đề khoa học kỹ thuật khác, như bản đồ địa chất, thủy văn, thổ nhưỡng, thực vật, dân cư,... và cả nhu cầu dân sinh như bản đồ du lịch, giao thông dân sự,... Các đối tượng lược bỏ là phần hoạt động quân sự quan tâm: đường đồng mức chi tiết, độ cao các cao điểm, chỉ dẫn về các đặc điểm địa vật như độ dốc taluy,...
Tên đối tượng do từng nhóm biên tập khác nhau thực hiện vào thời gian và hoàn cảnh khác nhau, nên khi đưa lên bản đồ lần đầu tiên thì khó tránh khỏi sự "chưa chuẩn xác" và thiếu thống nhất. Dẫu vậy nếu không quá sai lệch thì tên đưa lên được thừa nhận, và việc trích xuất sang bản đồ cho môn học địa lý góp phần vào phổ biến những tên đó. Tại Việt Nam, và ở vùng Đông Dương nói chung, bản đồ do người Pháp lập ra đã tác động đến tên sông và một số địa danh.
Từ những năm 1990 việc số hóa bản đồ địa hình đã được bắt đầu. Ví dụ như tại Cục Trắc địa và Đồ bản CHLB Đức (Bundesamt für Kartographie und Geodäsie), và đến nay đã hoàn thiện ở các tỷ lệ.[13]
Tại Việt Nam, việc số hóa bắt đầu muộn hơn một chút, khi các phần mềm biên tập bản đồ được nhập khẩu và qua giai đoạn thử nghiệm[14]. Đến nay Bản đồ địa hình chính thức ở tỷ lệ đến 1:50 000 theo Hệ toạ độ quốc gia Việt Nam VN2000 đã hoàn thiện số hóa năm 2004, do Trung tâm Thông tin Dữ liệu Đo đạc và Bản đồ thuộc Cục Đo đạc và Bản đồ Việt Nam quản lý và phát hành Lưu trữ 2018-08-27 tại Wayback Machine cho các mục đích công vụ.
Dựa theo dữ liệu bản đồ thế giới, các dạng trực quan của bản đồ địa hình được đưa ra ở Dự án OpenStreetMap và Shuttle Radar Topography Mission.
Bảng Unicode Biểu tượng giao thông và bản đồ Official Unicode Consortium code chart: Transport and Map Symbols Version 13.0 | ||||||||||||||||
0 | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | A | B | C | D | E | F | |
U+1F68x | 🚀 | 🚁 | 🚂 | 🚃 | 🚄 | 🚅 | 🚆 | 🚇 | 🚈 | 🚉 | 🚊 | 🚋 | 🚌 | 🚍 | 🚎 | 🚏 |
U+1F69x | 🚐 | 🚑 | 🚒 | 🚓 | 🚔 | 🚕 | 🚖 | 🚗 | 🚘 | 🚙 | 🚚 | 🚛 | 🚜 | 🚝 | 🚞 | 🚟 |
U+1F6Ax | 🚠 | 🚡 | 🚢 | 🚣 | 🚤 | 🚥 | 🚦 | 🚧 | 🚨 | 🚩 | 🚪 | 🚫 | 🚬 | 🚭 | 🚮 | 🚯 |
U+1F6Bx | 🚰 | 🚱 | 🚲 | 🚳 | 🚴 | 🚵 | 🚶 | 🚷 | 🚸 | 🚹 | 🚺 | 🚻 | 🚼 | 🚽 | 🚾 | 🚿 |
U+1F6Cx | 🛀 | 🛁 | 🛂 | 🛃 | 🛄 | 🛅 | 🛆 | 🛇 | 🛈 | 🛉 | 🛊 | 🛋 | 🛌 | 🛍 | 🛎 | 🛏 |
U+1F6Dx | 🛐 | 🛑 | 🛒 | 🛓 | 🛔 | 🛕 | ||||||||||
U+1F6Ex | 🛠 | 🛡 | 🛢 | 🛣 | 🛤 | 🛥 | 🛦 | 🛧 | 🛨 | 🛩 | 🛪 | 🛫 | 🛬 | |||
U+1F6Fx | 🛰 | 🛱 | 🛲 | 🛳 | 🛴 | 🛵 | 🛶 | 🛷 | 🛸 | 🛹 | 🛺 |