Boys Over Flowers – Con nhà giàu | |
![]() Bìa Hana yori Dango tập một | |
Thể loại | |
---|---|
Manga | |
Tác giả | Kamio Yoko |
Nhà xuất bản | ![]() |
Đối tượng | Shōjo |
Tạp chí | ![]() |
Đăng tải | Tháng 10 năm 1992 – Tháng 8 năm 2008 |
Số tập | 37 |
Anime | |
Đạo diễn | Shigeyasu Yamauchi |
Hãng phim | Toei Animation |
Phát sóng | 8 tháng 9 năm 1996 – 31 tháng 8 năm 1997 |
Số tập | 51 |
Anime | |
Hana Yori Dango: The Movie | |
Đạo diễn | Shigeyasu Yamauchi |
Hãng phim | Toei Animation |
Phát sóng | 8 tháng 3 năm 1997 |
Thời lượng / tập | 90 phút |
Anime | |
Hana Yori Dango Tiếng Nhật: 花より男子 | |
Đạo diễn | Yasuharu Ishii |
Phát sóng | Tháng 10 năm 2005 – Tháng 12 năm 2005 |
Số tập | 9 |
Anime | |
Hana Yori Dango Returns Tiếng Nhật: 花より男子2 / 花より男子2(リターンズ) | |
Đạo diễn | Yasuharu Ishii Osamu Katayama Daisuke Yamamuro |
Phát sóng | Tháng 1 năm 2007 – Tháng 3 năm 2007 |
Số tập | 11 |
Anime | |
Hana Yori Dango Final Tiếng Nhật: 花より男子~ファイナル~ | |
Đạo diễn | Yasuharu Ishii |
Hãng phim | Katsuharu Setoguchi, Shinichi Sanjo |
Phát sóng | 28 tháng 6 năm 2008 |
Boys Over Flowers – Con nhà giàu,[a] hay còn được biết tới với tên gốc Hana yori Dango (Nhật: 花より
Bộ truyện được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Margaret của Shueisha từ tháng 10 năm 1992 đến tháng 1 năm 2004, với các chương được tập hợp thành 37 tập tankōbon từ năm 1992 đến năm 2008. Ở Bắc Mỹ, đơn vị cấp phép lưu hành bộ manga là Viz Media.
Bộ manga đã có nhiều lần được chuyển thể lên các phương tiện khác nhau. Tác phẩm lần đầu được chuyển thể thành phim truyền hình audio phát hành trên CD từ tháng 7 năm 1993 đến tháng 7 năm 1994. Tiếp theo là một bộ phim người đóng của Nhật Bản vào năm 1995, kế đến là một bộ anime truyền hình do Toei Animation sản xuất, được phát sóng trên ABC từ năm 1996 đến 1997. Bản chuyển thể truyền hình người đóng đầu tiên được sản xuất tại Đài Loan với tựa đề Vườn sao băng (2001). Sau Vườn sao băng của Đài Loan, một số bộ phim truyền hình người đóng chuyển thể khác đã nối tiếp nhau ra đời. Một bộ phim truyền hình người đóng của Nhật Bản được phát sóng từ năm 2005 đến 2007 (và tiếp theo là một phim điện ảnh năm 2008), bản chuyển thể của Hàn Quốc phát sóng vào năm 2009, bản chuyển thể của Trung Quốc đại lục (cũng có tên là Vườn sao băng) phát sóng vào năm 2018 và bản chuyển thể của Thái Lan, F4 Thaiand: Boys Over Flowers phát sóng từ năm 2021 đến năm 2022.
Năm 1996, Hana yori Dango đã giành được giải Manga Shogakukan lần thứ 41 cho thể loại shoujo. Tính đến tháng 2 năm 2015, bộ truyện đã có hơn 61 triệu bản lưu hành, trở thành một trong những bộ manga bán chạy nhất mọi thời đại và là bộ manga shoujo bán chạy nhất mọi thời đại. Bộ truyện rất nổi tiếng ở khu vực Đông Á.
Học viện Eitoku (英徳学園 Eitoku Gakuen) tại Yamanote, Nhật Bản là một trường học danh giá chuyên nhận thiếu nhi từ các gia đình thượng lưu. Do đó, Makino Tsukushi (xuất thân từ gia đình trung lưu) đáp ứng đúng tên của cô theo nghĩa đen, vì lúc đầu cô bị xem là "cỏ dại" trong trường. Thống trị ngôi trường là nhóm F4 ("Flower Four"), tức 4 chàng thiếu niên từ các gia đình giàu có nhất Nhật Bản. Domyoji Tsukasa là con trai của gia đình giàu có và quyền lực nhất Nhật Bản. Ban đầu họ bắt nạt Tsukushi khi cô đứng lên chống lại họ. Tuy nhiên, sau cùng Domyoji quan tâm đến cô vì cô là cô gái duy nhất trong trường dám đứng lên chống lại anh. Tuy nhiên Tsukushi lại cự tuyệt Domyoji bởi bản tính nóng nảy và thái độ bắt nạt của cậu, thay vào đó cô lại phải lòng Hanazawa Rui, chàng trai ăn nói nhẹ nhàng và nhạy cảm, bạn thân của Tsukasa từ khi còn nhỏ.
Hai thành viên khác của F4 là Mimasaka Akira, người hòa giải ung dung của nhóm và Nishikado Sojirou, một tay sát gái không biết hối cải. Cả hai thường có ít nhất một bạn gái cùng một lúc; Akira thích phụ nữ lớn tuổi hơn vì những người phụ nữ trong gia đình cậu (mẹ và hai em gái của cậu) khá trẻ con. Sojirou rất vui khi có mối quan hệ bình thường với nhiều phụ nữ, mặc dù sau đó đã có lúc cậu yêu một người bạn thời thơ ấu. Theo thời gian, tình cảm của Tsukushi đối với Tsukasa phát triển, khi cô ấy bắt đầu đánh giá cao mức độ thay đổi ở Tsukasa khi cậu yêu cô. Tuy nhiên, vì sự khác biệt về giai cấp, mối quan hệ của Tsukushi và Tsukasa bị mẹ của Tsukasa là Kaede ngăn cản, nhưng lại được chị gái cậu là Tsubaki ủng hộ (cô còn trở thành bạn của Tsukushi).
Do Kamio Yoko sáng tác và minh họa, Boys Over Flowers – Con nhà giàu được đăng nhiều kỳ (hai tuần một lần) trên tạp chí Margaret của Shueisha từ tháng 10 năm 1992 đến tháng 1 năm 2004. Tháng 7 năm 2006, một truyện ngắn dựa trên bộ manga được đăng trên số 15 của tạp chí Margaret;[10] một truyện ngắn hai phần khác được xuất bản vào tháng 1 năm 2007.[10] Bộ truyện được tập hợp làm 37 tập tankōbon phát hành từ ngày 23 tháng 10 năm 1992[11] đến ngày 25 tháng 6 năm 2008.[12] Bản dịch tiếng Anh của toàn bộ 37 tập đã được Viz Media phát hành từ năm 2003 đến 2009.[13] Tác phẩm còn được Glénat xuất bản ở Pháp,[14] và Planeta DeAgostini xuất bản ở Tây Ban Nha.[15] Tại Việt Nam, nhà xuất bản Kim Đồng là đơn vị phân phối tác phẩm vào năm 2019 với nhan đề Boys Over Flowers – Con nhà giàu.[16]
Kamio bắt đầu viết phần tiếp theo mang tên Boys Over Flowers Season 2 trên tạp chí trực tuyến Shōnen Jump+ của Shueisha vào ngày 15 tháng 2 năm 2015.[17]
Một vở kịch audio chuyển thể từ Boys Over Flowers, được tiếp thị trên thị trường dưới dạng "CD books" (CDブック) , phát hành từ tháng 7 năm 1993 đến tháng 7 năm 1994. Tác phẩm có sự tham gia của Kimura Takuya (trong lần đầu anh lồng tiếng), anh lồng tiếng cho Hanazawa Rui, nhân vật mà bản chuyển thể này lấy làm trọng tâm.[18][19][20]
Chính thức | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Quốc gia | Tựa phim | Kênh | Thời gian phát sóng | Nhân vật (nam) chính | |||||
![]() |
Hana yori Dango | phim điện ảnh | 19 tháng 8 năm 1995 | Makino Tsukushi | Domyoji Tsukasa | Hanazawa Rui | Mimasaka Akira
(Koichi Hashizume) |
Nishikado Sojiro
(Kensaku Saeki) |
— |
![]() |
Vườn sao băng | CTS | 12 tháng 4 – 16 tháng 8 năm 2001 | Đổng Sam Thái | Đạo Minh Tự | Hoa Trạch Loại | Tây Môn | Mĩ Tác | — |
Vườn sao băng II | 11 tháng 11 – 25 tháng 12 năm 2002 | ||||||||
![]() |
Hana Yori Dango | TBS | 21 tháng 10 – 16 tháng 12 năm 2005 | Makino Tsukushi | Domyoji Tsukasa | Hanazawa Rui | Mimasaka Akira | Nishikado Sojiro | — |
Hana yori Dango Ritānzu | 5 tháng 1 – 16 tháng 3 năm 2007 | ||||||||
Hana yori Dango Final: The Movie | phim điện ảnh | 28 tháng 6 năm 2008 | |||||||
![]() |
Vườn sao băng | KBS2 | 5 tháng 1 – 31 tháng 3 năm 2009 | Geum Jan-di | Gu Jun-pyo | Yoon Ji-hu | Song Woo-bin
(Kim Joon) |
So Yi-jung
(Kim Bum) |
— |
![]() |
Vườn sao băng (làm lại) | Truyền hình Hồ Nam | 9 tháng 7 – 29 tháng 8 năm 2018 | Đổng Sam Thái | Đạo Minh Tự | Hoa Trạch Loại | Phùng Mỹ Tác | Tây Môn Ngạn | — |
![]() |
F4 Thailand: Boys Over Flowers | GMM 25 | 18 tháng 12 năm 2021 – 9 tháng 4 năm 2022 | Gorya / Thithara Jundee | Thyme / Akira Paramaanantra | Ren / Renrawin Aira
(Jirawat Sutivanisak) |
MJ / Methas Jarustiwa
(Hirunkit Changkham) |
Kavin / Taemiyaklin Kittiyangkul | — |
Không chính thức (không cấp phép) | |||||||||
![]() |
Siapa Takut Jatuh Cinta | SCTV | Tháng 4 năm 2002 | Oni
(Leony Vitria Hartanti) |
Indra
(Indra Bruggman) |
Roger | Yusuf Iman
(Steve Emmanuel) |
Jonathan
(Jonathan Frizzy) |
— |
![]() |
Vườn sao băng | Truyền hình Hồ Nam | 8 tháng 8 năm 2009 – 30 tháng 8 năm 2010 | Sở Vũ Đàm | Mộ Dung Vân Hải | Đoan Mộc Lỗi | Diệp Thước | Thượng Quan Thụy Khiêm
(Chu Tử Kiêu) |
— |
![]() |
Kaisi Yeh Yaariaan | MTV Ấn Độ (1–2)
Voot (3) |
21 tháng 7 năm 2014 – 7 tháng 6 năm 2018 | Nandini Murthy | Manik Malhotra | Dhruv Vedant
(Utkarsh Gupta) |
Mukti Vardhan | Cabir Dhawan | Alya Saxena |
![]() |
Siapa Takut Jatuh Cinta [id] | SCTV | 13 tháng 11 năm 2017 – 28 tháng 10 năm 2018 | Laras Ayuningtyas
(Natasha Wilona) |
Alvino Adijaya
(Verrell Bramasta) |
Leon | Satya Adijaya | Sean Adijaya | — |
Một bộ anime truyền hình do Toei Animation sản xuất và được phát sóng trên truyền hình bởi Asahi Broadcasting Corporation và TV Asahi vào năm 1996. Kế đến là một phim ngắn chiếu rạp ngoại truyện, lấy bối cảnh ở một vũ trụ khác, vào năm 1997. Sau đó anime được Viz Media phát hành ở Bắc Mỹ trên DVD vào năm 2003, với nhan đề Boys Over Flowers. Sau đó tác phẩm được Discotek Media tái phát hành lại vào năm 2016 với tựa Hana yori Dango.[21][22][23]
Số tập | Tên tập | Ngày phát sóng gốc |
---|---|---|
1 | "Declaration of War!"
Phiên âm: "Sensen Fukoku!" (tiếng Nhật: 宣戦布告!) |
8 tháng 9 năm 1996 |
2 | "No Brand Girl"
Phiên âm: "Nōburando no Onna!" (tiếng Nhật: ノーブランドの女!) |
15 tháng 9 năm 1996 |
3 | "I Won't be Hurt!"
Phiên âm: "Kizutsui Tari Shinai!" (tiếng Nhật: 傷ついたりしない!) |
22 tháng 9 năm 1996 |
4 | "The Ordinary Duo!"
Phiên âm: "Panpīna Futari!" (tiếng Nhật: パンピーな二人!) |
29 tháng 9 năm 1996 |
5 | "Me, Him… and the Other Guy!"
Phiên âm: "Kare to Atashi to Aitsu" (tiếng Nhật: 彼とあたしとアイツ) |
6 tháng 10 năm 1996 |
6 | "Cinderella for a Night"
Phiên âm: "Hitoyo no Shinderera" (tiếng Nhật: 一夜のシンデレラ) |
13 tháng 10 năm 1996 |
7 | "Atami Night Love"
Phiên âm: "Koi no Atami Naito" (tiếng Nhật: 恋のアタミナイト) |
20 tháng 10 năm 1996 |
8 | "The Nightmare of the Fall Term!!"
Phiên âm: "Shingakki no Akumu!!" (tiếng Nhật: 新学期の悪夢!!) |
27 tháng 10 năm 1996 |
9 | "Tsukasa Domyoji Snaps!"
Phiên âm: "Dōmyōji Tsukasa Kireru!" (tiếng Nhật: 道明寺司・キレル!) |
10 tháng 11 năm 1996 |
10 | "The Woman Who Gave Up Everything"
Phiên âm: "Subete o Suteru Hito" (tiếng Nhật: すべてを捨てる女性) |
17 tháng 11 năm 1996 |
11 | "Love Beyond the Horizon"
Phiên âm: "Ai wa Ōzora no Kanatahe" (tiếng Nhật: 愛は大空の彼方へ) |
24 tháng 11 năm 1996 |
12 | "A Date in the Snow"
Phiên âm: "Dēto!? Yuki no Omotesandō" (tiếng Nhật: デート!? 雪の表参道) |
1 tháng 12 năm 1996 |
13 | "Love Moves Too Fast"
Phiên âm: "Haya Sugiru Koi no Tenkai" (tiếng Nhật: はやすぎる恋の展開) |
8 tháng 12 năm 1996 |
14 | "Sakurako's Secret"
Phiên âm: "Sakurako no Kakusareta Himitsu" (tiếng Nhật: 桜子の隠された秘密) |
15 tháng 12 năm 1996 |
15 | "Get Lost!!"
Phiên âm: "Tottoto Kiena!!" (tiếng Nhật: とっとと消えな!!) |
22 tháng 12 năm 1996 |
16 | "Please Believe Me!"
Phiên âm: "Atashi o Shinjite!" (tiếng Nhật: あたしを信じて!) |
29 tháng 12 năm 1996 |
17 | "Mine at Last"
Phiên âm: "Yatto Tsukamaeta" (tiếng Nhật: やっとつかまえた) |
5 tháng 1 năm 1997 |
18 | "Will You Go Out with Me?"
Phiên âm: "Ore to Tsukiawanai?" (tiếng Nhật: 俺とつきあわない?) |
12 tháng 1 năm 1997 |
19 | "Be Still My Beating Heart"
Phiên âm: "Sazameku Mune no Kotori" (tiếng Nhật: さざめく胸の小鳥) |
19 tháng 1 năm 1997 |
20 | "Night of Betrayal"
Phiên âm: "Uragiri no Atsui Yoru" (tiếng Nhật: 裏切りの暑い夜) |
26 tháng 1 năm 1997 |
21 | "The Crime and Punishment of a Kiss"
Phiên âm: "Kisu to Tsumi to Batsu" (tiếng Nhật: キスの罪と罰) |
2 tháng 2 năm 1997 |
22 | "A Bewildering First Date!"
Phiên âm: "Tomadoi no Hatsu Dēto" (tiếng Nhật: 戸惑いの初デート) |
9 tháng 2 năm 1997 |
23 | "The Arrival of Tsubaki Domyoji!"
Phiên âm: "Dōmyōji Tsubaki Arawaru!" (tiếng Nhật: 道明寺椿あらわる!) |
16 tháng 2 năm 1997 |
24 | "Love's Tempest! Being Expelled!?"
Phiên âm: "Ai no Arashi! Gakuen Tsuihō!?" (tiếng Nhật: 愛の嵐!学園追放!?) |
23 tháng 2 năm 1997 |
25 | "Two Ways to Love"
Phiên âm: "Futari Sorezore no Ai" (tiếng Nhật: 人・それぞれの愛) |
2 tháng 3 năm 1997 |
26 | "Sleepless Night!"
Phiên âm: "Nemurenai Futari no Yoru!" (tiếng Nhật: 眠れない二人の夜!) |
9 tháng 3 năm 1997 |
27 | "Tsukasa Goes to New York!!"
Phiên âm: "Dōmyōji, Nyū Yōku e!!" (tiếng Nhật: 道明寺、N.Yへ!!) |
16 tháng 3 năm 1997 |
28 | "Tsukushi Goes to Canada!!"
Phiên âm: "Tsukushi, Kanada e!!" (tiếng Nhật: つくし、カナダへ!!) |
23 tháng 3 năm 1997 |
29 | "His Body Against Mine"
Phiên âm: "Aitsu no Nukumori!" (tiếng Nhật: アイツのぬくもり!) |
30 tháng 3 năm 1997 |
30 | "Do You Want a Friend?"
Phiên âm: "Tomodachi, Iranai?" (tiếng Nhật: 友だち、いらない?) |
6 tháng 4 năm 1997 |
31 | "Shock! Horror! Another Red Card!"
Phiên âm: "Shōgeki! Nidome no Akafuda" (tiếng Nhật: 衝撃!二度目の赤札) |
13 tháng 4 năm 1997 |
32 | "Tsukasa Won't Come...?"
Phiên âm: "Dōmyōji wa Konai?" (tiếng Nhật: 道明寺は・・・来ない?) |
20 tháng 4 năm 1997 |
33 | "Someday We'll Laugh..."
Phiên âm: "Itsuka Waraeru hi" (tiếng Nhật: いつか笑える日) |
27 tháng 5 năm 1997 |
34 | "The Woman in My Life!"
Phiên âm: "Ore no Daijina Onna Desu!" (tiếng Nhật: 俺の大事な女です!) |
4 tháng 5 năm 1997 |
35 | "Lovers on the Run!?"
Phiên âm: "Koi no Tōhikō!?" (tiếng Nhật: 恋の逃避行!?) |
11 tháng 5 năm 1997 |
36 | "Tsukasa's Mother's Secret Plan"
Phiên âm: "Tsukasa no Haha no Hisokana Takurami" (tiếng Nhật: 司の母の密かな企み) |
18 tháng 5 năm 1997 |
37 | "It's Showdown Time!"
Phiên âm: "Shikumareta Taiketsu!" (tiếng Nhật: 仕組まれた対決!) |
25 tháng 5 năm 1997 |
38 | "I Will Tame You!!"
Phiên âm: "Chōkyō Shite Ageru!!" (tiếng Nhật: 調教してあげる!!) |
1 tháng 6 năm 1997 |
39 | "Love Triangle from Hell!"
Phiên âm: "Ma no Toraianguru" (tiếng Nhật: 魔のトライアングル) |
8 tháng 6 năm 1997 |
40 | "The Turning of Love's Tide"
Phiên âm: "Koi no Hikigiwa Bunkiten" (tiếng Nhật: 恋の引き際・分岐点) |
15 tháng 6 năm 1997 |
41 | "The Dawning of a New Day"
Phiên âm: "Atarashī Hibi no Hajimari" (tiếng Nhật: 新しい日々の始まり) |
20 tháng 6 năm 1997 |
42 | "Surprise! A Double Date!"
Phiên âm: "Battari! W Dēto" (tiếng Nhật: バッタリ!Wデート) |
29 tháng 6 năm 1997 |
43 | "Deep Wounds of the Heart"
Phiên âm: "Kokoro no Kizu wa Fukakute Omoi" (tiếng Nhật: 心の傷は深くて重い) |
6 tháng 7 năm 1997 |
44 | "You're Not the One"
Phiên âm: "Omae ja Dameda!" (tiếng Nhật: おまえじゃダメだ!) |
13 tháng 7 năm 1997 |
45 | "Open Up Your Heart"
Phiên âm: "Sunao ni Nareba?" (tiếng Nhật: 素直になれば?) |
20 tháng 7 năm 1997 |
46 | "Hurricane Approaching"
Phiên âm: "Harikēn Sekkinchū!!" (tiếng Nhật: ハリケーン接近中!!) |
27 tháng 7 năm 1997 |
47 | "New Student Shigeru Causes Shockwave!"
Phiên âm: "Tenkōsei Shigeru no Hamon!" (tiếng Nhật: 転校生・滋の波紋!) |
3 tháng 8 năm 1997 |
48 | "Study Abroad!?"
Phiên âm: "Ryūgaku Suru Shikanai?!" (tiếng Nhật: 留学するしかない?!) |
10 tháng 8 năm 1997 |
49 | "Our New Relationship"
Phiên âm: "Futari no Atarashī Kankei" (tiếng Nhật: 二人の新しい関係) |
17 tháng 8 năm 1997 |
50 | "Time to Call It Quits"
Phiên âm: "Mō Oshimai ni Shiyo" (tiếng Nhật: もうおしまいにしよ) |
24 tháng 8 năm 1997 |
51 | "Neverending"
Phiên âm: "Nebāendingu" (tiếng Nhật: ネバーエンディング) |
31 tháng 8 năm 1997 |
Boys Over Flowers – Con nhà giàu đã giành được giải Manga Shogakukan lần thứ 41 cho thể loại shoujo vào năm 1996.[24] Tính đến tháng 2 năm 2015, bộ truyện đã có hơn 61 triệu bản lưu hành, trở thành một trong những bộ manga bán chạy nhất mọi thời đại và là bộ shoujo manga bán chạy nhất mọi thời đại.[25][26] Tháng 4 năm 2023, Sách Kỷ lục Guinness đã chính thức ghi danh Boys Over Flowers – Con nhà giàu là bộ shoujo manga bởi một tác giả được xuất bản nhiều nhất.[27] Trong cuộc thăm dò Manga Sōsenkyo vào năm 2021 của TV Asahi, 150.000 người trong số đó đã bình chọn cho 100 bộ manga hay nhất của họ, Boys Over Flowers xếp thứ 70.[28]
F4 (Flower Four) hay JVKV là một nhóm nhạc nam người Đài Loan bao gồm các thành viên của bộ phim Vườn sao băng phiên bản Đài Loan năm 2001: Ngôn Thừa Húc, Ngô Kiến Hào, Chu Hiếu Thiên và Châu Du Dân. Nhóm được thành lập vào năm 2001 sau khi bộ Vườn sao băng ngừng chiếu. Họ đã phát hành ba album, Mưa sao băng (2001), Fantasy 4ever (2002) và Waiting for You (2007). Theo Forbes, F4 đã tiêu thụ 3,5 triệu bản cho hai album đầu tiên của họ trên toàn châu Á tính đến tháng 7 năm 2003.[29] Năm 2007, do vấn đề bản quyền, nhóm đổi tên thành JVKV, sử dụng tên viết tắt của các thành viên theo thứ tự tuổi giảm dần.[30]