Cá mú/song dẹt,[2] hay còn gọi là cá mú/song chuột,[3]danh pháp là Cromileptes altivelis, là loài cá biển duy nhất thuộc chi Cromileptes trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1828.
Swainson đã sử dụng cùng lúc cả hai cái tên Cromileptes và Chromileptes để gọi chi này. Cả hai tên này vẫn được sử dụng song song trong các tài liệu khoa học hiện đại.[4] Tuy nhiên không rõ nguồn gốc từ nguyên của tên chi (dù là tên nào).[5]
Từ định danh altivelis được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh, altus ("cao") và velum ("cánh buồm"), hàm ý đề cập đến vây lưng của loài này cao hơn bất kỳ đồng loại nào trong chi Serranus vào thời điểm được mô tả.[5]
Trước đó, Craig và Hastings (2007) đã đề xuất chuyển cá mú dẹt vào chi Epinephelus, nhưng do không có sự khác biệt đáng kể về hình thái giữa các chi Anyperodon, Cromileptes và Epinephelus mà Craig và cộng sự (2012) đã giữ lại Anyperodon và Cromileptes.[7] Theo Ma và Craig (2018), cá mú dẹt có hình dạng đầu đặc biệt nhất trong số các loài cá mú (lõm sâu xuống về phía trước và nâng cao về phía sau), nhưng đặc điểm hình thái học khác biệt trong cùng một nhánh không phải là hiếm ở các loài cá.[8]
Trong danh mục các loài cá mú của Parenti và Randall (2020), Cromileptes vẫn được công nhận là một chi đơn loài hợp lệ.[4]
Cá mú dẹt nhiều lần được bắt gặp ở quần đảo Hawaii trong khoảng từ năm 1980 đến đầu thập niên 1990, nhưng từ sau nửa cuối thập niên 90, loài này không còn được nhìn thấy. Do đó, toàn bộ những ghi nhận về sự xuất hiện cá mú dẹt tại Hawaii đều được cho là cá cảnh thả ra biển.[10]
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở cá mú dẹt là 70 cm.[11] Cá mú dẹt có màu nâu lục nhạt, rất nhiều chấm tròn đen trên khắp cơ thể (vài chấm nằm trên một vệt màu tối lớn hơn).
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 17–19; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 9–10; Số tia vây ở vây ngực: 17–18; Số vảy đường bên: 54–62.[12][13]
Thức ăn của cá mú dẹt là những loài cá nhỏ hơn và động vật giáp xác.[11] Theo nghiên cứu của Vũ Văn Sáng và cộng sự (2013), cá mú dẹt đạt hiệu quả ấp nở cao nhất tại nhiệt độ 28 °C và độ mặn 32 - 35‰.[14] Tuổi lớn nhất được ghi nhận ở cá mú dẹt là 19 năm tuổi.[15]
Cá mú dẹt trưởng thành có giá trị thương mại cao.[13] Đây là một trong những loài cá thực phẩm quan trọng nhất được nhập khẩu ở Hồng Kông, với nguồn cung chủ yếu từ Indonesia và Philippines.[1]
Cá con là loài cá cảnh phổ biến và cũng được bán với giá cao.[1]
^Trần Công Thịnh; Võ Văn Quang; Lê Thị Thu Thảo; Nguyễn Phi Uy Vũ; Trần Thị Hồng Hoa (2015). “Thành phần loài mẫu vật cá Mú (Họ Serranidae) lưu trữ ở Bảo tàng Hải dương học”(PDF). Báo cáo khoa học về sinh thái và tài nguyên sinh vật (Hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ sáu): 327–333. Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2020.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
^R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). “Serranus altivelis”. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2022.
^ abP. C. Heemstra, & J. E. Randall (1999). “Serranidae”(PDF). Trong Kent E. Carpenter; Volker H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Roma: FAO. tr. 2484. ISBN92-5-104051-6.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết) Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
Izana là một người đàn ông mang nửa dòng máu Philippines, nửa Nhật Bản, có chiều cao trung bình với đôi mắt to màu tím, nước da nâu nhạt và mái tóc trắng ngắn thẳng được tạo kiểu rẽ ngôi giữa
Nhìn chung, Lizbeth là một phiên bản khác của Kyoko, máu trâu giáp dày, chia sẻ sát thương và tạo Shield bảo vệ đồng đội, đồng thời sở hữu DEF buff và Crit RES buff cho cả team rất hữu dụng