Cantherhines pardalis

Cantherhines pardalis
Phân loại khoa học edit
Vực: Eukaryota
Giới: Animalia
Ngành: Chordata
Lớp: Actinopterygii
Bộ: Tetraodontiformes
Họ: Monacanthidae
Chi: Cantherhines
Loài:
C. pardalis
Danh pháp hai phần
Cantherhines pardalis
(Rüppel, 1837)
Các đồng nghĩa
Danh sách
    • Monacanthus pardalis Rüppell, 1837
    • Monacanthus melanuropterus Bleeker, 1853
    • Monacanthus aspersus H. L. G. M. Hollard, 1854
    • Monacanthus houttuyni Bleeker, 1854
    • Monacanthus kibikib X. Montrouzier, 1857
    • Amanses microlepidotus Gray, 1859
    • Monacanthus brunneus Castelnau, 1873
    • Monacanthus fuliginosus Cope, 1883
    • Monacanthus fatensis Seale, 1906
    • Monacanthus melanistius Regan, 1908
    • Pseudomonacanthus melanoides Ogilby, 1908
    • Monacanthus natalensis Gilchrist & Thompson, 1911
    • Monacanthus laevicaudatus Duncker & Mohr, 1929
    • Hanomanctus bovinus Smith, 1949

Cantherhines pardalis là một loài cá biển thuộc chi Cantherhines trong họ Cá bò giấy. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1837.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Tính từ định danh pardalis trong tiếng Latinh nghĩa là "như báo hoa mai", hàm ý đề cập đến những đốm sát nhau phủ khắp cơ thể loài này.[2]

Phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

C. pardalis có phân bố rộng khắp Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, gồm cả biển Đỏ. Từ Đông Phi trải dài về phía đông đến quần đảo Pitcairn, ngược lên phía bắc đến miền nam Nhật BảnHàn Quốc,[3] xa về phía nam đến Nam PhiÚc.[1]

C. pardalis được ghi nhận dọc theo một số vùng biển Việt Nam, như Bình Thuận,[4] Ninh Thuận,[5] vịnh Nha Trangquần đảo Trường Sa,[6] cũng như bờ biển Bắc Hải Vân (Thừa Thiên Huế).[7]

C. pardalis sống trên các rạn san hô, phổ biến ở khu vực đất bùn, độ sâu đến khoảng 20 m.[8]

Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở C. pardalis là 25 cm.[8] Chúng có các tông màu nâu xám, vàng nâu và nâu lục, thường có hoa văn dạng tổ ong, đôi khi có 5 sọc dọc màu sẫm ở nửa thân sau. Đầu có các sọc xanh lục/lam và nâu xen kẽ từ mắt và mang kéo dài đến miệng (khó nhìn thấy ở cá thể màu nâu sẫm). Đốm trắng bạc xuất hiện cuối gốc vây lưng mềm và đôi khi ở cuối gốc vây hậu môn. Cá đực trưởng thành có một túm lông cứng trên cuống đuôi.[9]

Số gai vây lưng: 2; Số tia vây lưng: 32–36; Số gai vây hậu môn: 0; Số tia vây hậu môn: 29–32; Số tia vây ngực: 12–14.[9]

Sinh thái

[sửa | sửa mã nguồn]

C. pardalis thường sống đơn độc. Cá trưởng thành thường lẫn vào đám tảo mơ lớn trong mùa mưa.[8]

Trong một quan sát ở ngoài khơi đảo Kashiwajima (tỉnh Kōchi, Nhật), một cặp C. pardalis đẻ trứng trên tảo nâu của họ Dictyotaceae, mà một số loài tảo họ này được biết là có độc tố. Có khả năng, C. pardalis sinh sản có chọn lọc trên các nhóm tảo như vậy để tránh việc trứng bị tấn công. Thức ăn của C. pardalis bao gồm rong tảo (chủ yếu tảo đỏ), một số ít các loài hải miên, giáp xáchà biển.[10]

Trứng đã thụ tinh có hình cầu, đường kính khoảng 0,50–0,53 mm, khoảng quanh noãn hoàng (perivitelline space) hẹp, noãn hoàng đồng nhất, trong suốt, màu xanh lục. Noãn chứa khoảng 20 giọt mỡ gần như không màu với kích thước khoảng 0,01–0,13 mm. Thời gian ấp trứng ở nhiệt độ 25°C là khoảng 33 giờ. Tiền ấu trùng mới nở dài 1,70–1,75 mm.[11]

Thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

C. pardalis ít có giá trị thương mại.[1]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Matsuura, K. & Motomura, H. (2017) [2016]. Cantherhines pardalis. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2016: e.T70010275A115475527. doi:10.2305/IUCN.UK.2016-1.RLTS.T70010275A70011789.en. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2024.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Christopher Scharpf biên tập (2024). “Order Tetraodontiformes”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database.
  3. ^ Kim, Maeng Jin; Han, Song-Hun; Song, Choon Bok (2017). “First Record of the Honeycomb Filefish, Cantherhines pardalis (Tetraodontiformes: Monacanthidae) from Korea” (PDF). Korean Journal of Ichthyology. 29 (4): 272–276. ISSN 1225-8598.
  4. ^ Mai Xuân Đạt (2019). “Cá rạn san hô trong các bãi ngầm và đảo đá ở vùng biển ngoài khơi tỉnh Bình Thuận” (PDF). Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển. 19 (4A): 259–271. ISSN 1859-3097.
  5. ^ Mai Xuân Đạt; Nguyễn Văn Long; Phan Thị Kim Hồng (2020). “Cá rạn san hô ở vùng biển ven bờ tỉnh Ninh Thuận” (PDF). Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển. 20 (4A): 125–139. doi:10.15625/1859-3097/15656. ISSN 1859-3097.
  6. ^ Nguyễn Hữu Phụng (2004). “Thành phần cá rạn san hô biển Việt Nam” (PDF). Tuyển tập Báo cáo Khoa học Hội nghị Khoa học "Biển Đông-2002": 275–308.
  7. ^ Lê Nguyễn Thới Trung; Võ Điều; Nguyễn Ngọc Hòa (2023). “Thành phần loài cá rạn san hô vùng biển ven bờ Bắc Hải Vân - Sơn Chà, tỉnh Thừa Thiên Huế” (PDF). Tạp chí Khoa học Trường Đại học Quy Nhơn. 17 (1): 75–85. doi:10.52111/qnjs.2023.17108.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  8. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Cantherhines pardalis trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
  9. ^ a b J. Barry Hutchins (2022). “Monacanthidae”. Trong Phillip C. Heemstra; E. Heemstra; David A. Ebert; W. Holleman; John E. Randall (biên tập). Coastal fishes of the western Indian Ocean (tập 5) (PDF). South African Institute for Aquatic Biodiversity. tr. 434-435.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
  10. ^ Kawasel, Hiroshi; Nakazono, Akinobu (1994). “Reproductive Behavior of the Honeycomb Leatherjacket, Cantherhines pardalis (Monacanthidae), at Kashiwajima, Japan”. Japanese Journal of Ichthyology. 41 (1): 80–83. doi:10.11369/jji1950.41.80.
  11. ^ Shadrin, A. M.; Emel’yanova, N. G. (2022). “Embryo-larval Development and Some Data on the Reproductive Biology of Cantherhines pardalis (Monacanthidae) from the South China Sea (Central Vietnam)”. Journal of Ichthyology. 62 (5): 932–942. doi:10.1134/S0032945222050150. ISSN 1555-6425.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan