Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở C. pardalis là 25 cm.[8] Chúng có các tông màu nâu xám, vàng nâu và nâu lục, thường có hoa văn dạng tổ ong, đôi khi có 5 sọc dọc màu sẫm ở nửa thân sau. Đầu có các sọc xanh lục/lam và nâu xen kẽ từ mắt và mang kéo dài đến miệng (khó nhìn thấy ở cá thể màu nâu sẫm). Đốm trắng bạc xuất hiện cuối gốc vây lưng mềm và đôi khi ở cuối gốc vây hậu môn. Cá đực trưởng thành có một túm lông cứng trên cuống đuôi.[9]
Số gai vây lưng: 2; Số tia vây lưng: 32–36; Số gai vây hậu môn: 0; Số tia vây hậu môn: 29–32; Số tia vây ngực: 12–14.[9]
C. pardalis thường sống đơn độc. Cá trưởng thành thường lẫn vào đám tảo mơ lớn trong mùa mưa.[8]
Trong một quan sát ở ngoài khơi đảo Kashiwajima (tỉnh Kōchi, Nhật), một cặp C. pardalis đẻ trứng trên tảo nâu của họ Dictyotaceae, mà một số loài tảo họ này được biết là có độc tố. Có khả năng, C. pardalis sinh sản có chọn lọc trên các nhóm tảo như vậy để tránh việc trứng bị tấn công. Thức ăn của C. pardalis bao gồm rong tảo (chủ yếu tảo đỏ), một số ít các loài hải miên, giáp xác và hà biển.[10]
Trứng đã thụ tinh có hình cầu, đường kính khoảng 0,50–0,53 mm, khoảng quanh noãn hoàng (perivitelline space) hẹp, noãn hoàng đồng nhất, trong suốt, màu xanh lục. Noãn chứa khoảng 20 giọt mỡ gần như không màu với kích thước khoảng 0,01–0,13 mm. Thời gian ấp trứng ở nhiệt độ 25°C là khoảng 33 giờ. Tiền ấu trùng mới nở dài 1,70–1,75 mm.[11]
^ abJ. Barry Hutchins (2022). “Monacanthidae”. Trong Phillip C. Heemstra; E. Heemstra; David A. Ebert; W. Holleman; John E. Randall (biên tập). Coastal fishes of the western Indian Ocean (tập 5)(PDF). South African Institute for Aquatic Biodiversity. tr. 434-435.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
^Shadrin, A. M.; Emel’yanova, N. G. (2022). “Embryo-larval Development and Some Data on the Reproductive Biology of Cantherhines pardalis (Monacanthidae) from the South China Sea (Central Vietnam)”. Journal of Ichthyology. 62 (5): 932–942. doi:10.1134/S0032945222050150. ISSN1555-6425.