Chiến tranh Hoa Kỳ-Philippines

Chiến tranh Philippines–Mỹ
Digmaang Pilipino-Amerikano

Theo chiều kim đồng hồ từ trên bên trái: Quân đội Mỹ ở Manila, Gregorio del Pilar và quân của ông khoảng năm 1898, Người Mỹ bảo vệ cây cầu sông Pasig vào năm 1898, trận Santa Cruz, binh lính Philippine tại Malolos, trận Quingua.
Thời gian4 tháng 2 năm 1899 – 2 tháng 7 năm 1902[1]
(3 năm, 4 tháng và 4 tuần)
Moro Rebellion: 1899–1913
Địa điểm
Kết quả

Hoa Kỳ chiến thắng

Thay đổi
lãnh thổ
Philippines trở thành lãnh thổ chưa có tư cách pháp nhân của Hoa Kỳ, và sau đó là một Thịnh vượng chung, cho đến năm 1946).
Tham chiến

1899–1902
 Hoa Kỳ

1899–1902
 Cộng hòa Philippines

Hỗ trợ nước ngoài hạn chế:
 Nhật Bản

1902–1913
 Hoa Kỳ

1902–1906
Bản mẫu:Lá cờicon image Cộng hòa Tagalog


1899–1913
Bản mẫu:Country data Sulu Sultanate

Chỉ huy và lãnh đạo
William McKinley
Theodore Roosevelt
Elwell Stephen Otis
Arthur MacArthur, Jr.
Wesley Merritt
Loyd Wheaton
Thomas M. Anderson
Joseph Wheeler
John J. Pershing
Jacob H. Smith
Henry Lawton 
Frederick N. Funston
Leonard Wood
James Francis Smith
Adna Chaffee
J. Franklin Bell
Peyton C. March
Luther Hare
Emilio Aguinaldo
Antonio Luna
Artemio Ricarte
José Alejandrino
Apolinario Mabini
Hilaria del Rosario
Miguel Malvar
Gregorio Del Pilar 
Manuel Tinio
Pio del Pilar
Juan Cailles
Bản mẫu:Lá cờicon image Macario Sakay Hành quyết
Bản mẫu:Lá cờicon image Dionisio Seguela
Teresa Magbanua
Bản mẫu:Lá cờicon image Vicente Alvarez
Bản mẫu:Country data Sulu Sultanate Jamal ul-Kiram II
Bản mẫu:Country data Sulu Sultanate Datu Ali
Hara Tei[2]
Lực lượng

≈126,000 total[3][4]

≈24,000 to ≈44.000 lực lượng chiến trường[5]
around 80,000–100,000
≈Regular & Irregular
Thương vong và tổn thất
4.234[6]–6.165 bị giết,[7] 2,818 wounded[6] 16.000–20.000 bị giết[8]
Thường dân Philipin: 34.000 người bị giết;[8] thêm 200.000 người chết do dịch tả[8][9][i]
  1. ^ Mặc dù có rất nhiều ước tính về cái chết của người dân, với một số thậm chí còn tốt hơn một triệu cho chiến tranh, các sử gia hiện đại thường đặt số người chết từ 200.000 đến 250.000; Xem "Thương vong".

Cuộc chiến tranh Philippines-Mỹ (còn gọi là Chiến tranh Philippines, Cuộc nổi dậy Philippines, Cuộc nổi dậy Tagalog;[10][11] tiếng Tagalog: Digmaang Pilipino-Amerikano, tiếng Tây Ban Nha: Guerra Filipino-Estadounidense, tiếng Anh: Philippine-American War) là một cuộc xung đột vũ trang giữa Đệ nhất Cộng hòa Philippines (tiếng Tây Ban Nha: República Filipina, tiếng Tagalog: Republikang Pilipino, tiếng Anh: First Philippine Republic) và Hoa Kỳ kéo dài từ ngày 4 tháng 2 năm 1899 đến ngày 2 tháng 7 năm 1902.[1] Chiến tranh là sự tiếp nối của cuộc đấu tranh giành độc lập của Philippines bắt đầu năm 1896 với cuộc Cách mạng Philippines. Cuộc xung đột nảy sinh khi Đệ nhất Cộng hòa Philippines phản đối các điều khoản của Hiệp ước Paris, trong đó Hoa Kỳ đã chiếm Philippines từ Tây Ban Nha, chấm dứt cuộc Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ.[12]

Cuộc chiến nổ ra giữa các lực lượng của Hoa Kỳ và của Cộng hòa Philippines vào ngày 4 tháng 2 năm 1899, trong trận chiến thứ hai được gọi là Trận đánh Manila. Vào ngày 2 tháng 6 năm 1899, Đệ nhất Cộng hòa Philippines chính thức tuyên chiến với Hoa Kỳ.[13][14] Cuộc chiến chính thức kết thúc vào ngày 2 tháng 7 năm 1902 với một chiến thắng cho Hoa Kỳ. Tuy nhiên, một số nhóm người Philippines do các cựu chiến binh của Katipunan dẫn đầu đã tiếp tục chiến đấu với lực lượng Mỹ trong nhiều năm. Trong số những người lãnh đạo này có tướng Macario Sakay, một thành viên cựu chiến binh Katipunan, người nắm giữ chức vụ tổng thống của "Cộng hòa Tagalog" được thành lập năm 1902 sau khi bắt giữ Tổng thống Emilio Aguinaldo. Các nhóm khác tiếp tục chiến đấu ở các vùng hẻo lánh và hòn đảo, bao gồm người Moro và người Pulahanes, cho tới khi đánh bại lần cuối của họ tại Trận Bud Bud Bagsak vào ngày 15 tháng 6 năm 1913.

Chiến tranh và sự chiếm đóng của Hoa Kỳ đã làm thay đổi cảnh quan văn hoá của các hòn đảo, vì người ta đã phải đối mặt với khoảng 200.000 đến 250.000 người Philippines bị chết,[15][16][17][18][19][20][21][22] và việc đưa tiếng Anh vào các hòn đảo như là ngôn ngữ chính của chính phủ, giáo dục, kinh doanh, công nghiệp, và giữa các gia đình và các cá nhân được giáo dục ngày càng nhiều trong thập kỷ tới. Việc chiếm đóng Philippines đã bị người dân bản địa phản đối gay gắt khiến Mỹ buộc phải cho phép nơi này dần dần được tự trị.

Năm 1902, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Đạo Luật Tổ chức Philippines để thành lập Nghị viện Philippines mà các thành viên của nghị viện sẽ được dân chúng Philippines bầu ra.[23] Đạo luật này sau đó bị thay thế bởi Đạo luật Tự trị Philippines vào năm 1916. Trong đạo luật này có chứa tuyên bố bằng văn bản và chính thức đầu tiên về sự cam kết của Chính phủ Hoa Kỳ dần dần trao trả độc lập cho Philippines.[24] Đạo luật Độc lập Philippines năm 1934 thiết lập nên Thịnh vượng chung Philippines vào năm sau đó. Đây là một hình thức độc lập hạn chế, và thiết lập một tiến trình với kết cục là sự trao trả nền độc lập cho Philippines (ban đầu được dự tính là vào năm 1944, nhưng bị gián đoạn và trì hoãn vì Thế chiến II). Hoa Kỳ trao trả độc lập cho Philippines trong hòa bình vào năm 1946, sau Chiến tranh Thế giới IIsự chiếm đóng của Nhật Bản tại Philippines bằng Hiệp ước Manila được ký kết giữa hai chính phủ của hai quốc gia này, lúc đó thì mối quan hệ đồng minh thân thiết giữa 2 nước cũng được thiết lập và duy trì cho đến ngày nay.

  1. ^ a b Worcester 1914, tr. 293.
  2. ^ a b “Diplomatic relations between the Philippines and Japan”. Diplomatic relations. Manila: Official Gazette of the Republic of the Philippines. 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2016. On ngày 4 tháng 2 năm 1899, the Philippine-American War broke out. A handful of Japanese shishi, or ultranationalists, fought alongside President Aguinaldo's army. They landed in Manila, led by Captain Hara Tei and joined Aguinaldo's forces in Bataan.
  3. ^ “Historian Paul Kramer revisits the Philippine–American War”. The JHU Gazette. Baltimore, Maryland: Johns Hopkins University Press. 35 (29). ngày 10 tháng 4 năm 2006. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2016.
  4. ^ Deady 2005, tr. 62 (p.10 of the pdf)
  5. ^ Deady 2005, tr. 55 (p.3 of the pdf)
  6. ^ a b Karnow 1989, tr. 194.
  7. ^ Hack & Rettig 2006, tr. 172.
  8. ^ a b c Ramsey 2007, tr. 103.
  9. ^ Smallman-Raynor, Matthew; Cliff, Andrew D. (1998). “The Philippines insurrection and the 1902–4 cholera epidemic: Part I—Epidemiological diffusion processes in war”. Journal of Historical Geography. 24 (1): 69–89. doi:10.1006/jhge.1997.0077.
  10. ^ Battjes 2011, tr. 74.
  11. ^ Silbey 2008, tr. 15.
  12. ^ Randolph 2009.
  13. ^ Kalaw 1927, tr. 199-200.
  14. ^ Paterno, Pedro Alejandro (ngày 2 tháng 6 năm 1899). “Pedro Paterno's Proclamation of War”. The Philippine-American War Documents. San Pablo City, Philippines: MSC Institute of Technology, Inc. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2016.
  15. ^ Clodfelter, Michael, Warfare and Armed Conflict: A Statistical Reference to Casualty and Other Figures, 1618-1991
  16. ^ Leon Wolff, Little Brown Brother (1961) p.360
  17. ^ Benjamin A. Valentino, Final solutions: mass killing and genocide in the twentieth century (2005) p.27
  18. ^ FAS 2000: Federation of American Scientists, The World at War (2000)
  19. ^ Philip Sheldon Foner, The Spanish-Cuban-American War and the Birth of American Imperialism (1972) p.626
  20. ^ George C. Herring, From colony to superpower: Hoa Kỳ foreign relations since 1776 (2008) p.329
  21. ^ Graff, American Imperialism and the Philippine Insurrection (1969)
  22. ^ Irving Werstein, 1898: The Spanish American War: told with pictures (1966) p.124
  23. ^ http://www.thecorpusjuris.com/constitutions/philippine-bill-of-1902.php
  24. ^ In the "Instructions of the President to the Philippine Commission Lưu trữ 2009-02-27 tại Wayback Machine" dated ngày 7 tháng 4 năm 1900, President William McKinley reiterated the intentions of the United States Government to establish and organize governments, essentially popular in their form, in the municipal and provincial administrative divisions of the Philippine Islands. However, there was no official mention of any declaration of Philippine Independence.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Zhongli sẽ là vị thần đầu tiên ngã xuống?
Zhongli sẽ là vị thần đầu tiên ngã xuống?
Một giả thuyết thú vị sau bản cập nhật 1.5
"I LOVE YOU 3000" Câu thoại hot nhất AVENGERS: ENDGAME có nguồn gốc từ đâu?
“I love you 3000” dịch nôm na theo nghĩa đen là “Tôi yêu bạn 3000 ”
Vĩnh biệt BAEMIN- hành trình chan chứa đầy cảm xúc
Vĩnh biệt BAEMIN- hành trình chan chứa đầy cảm xúc
Baemin với tên khai sinh đầy đủ là Baedal Minjeok, được sự hẫu thuận mạnh mẽ nên có chỗ đứng vững chắc và lượng người dùng ổn định
Kỹ thuật Feynman có thể giúp bạn nhớ mọi thứ mình đã đọc
Kỹ thuật Feynman có thể giúp bạn nhớ mọi thứ mình đã đọc
Nhà vật lý đoạt giải Nobel Richard Feynman (1918–1988) là một chuyên gia ghi nhớ những gì ông đã đọc