Album phòng thu thứ ba của nữ ca sĩ người Anh Adele , 25 , là album bán nhanh nhất và chạy nhất của năm 2015 tính đến cuối năm. Album đứng ở vị trí quán quân bảng xếp hạng Billboard 200 trong 3 tuần cuối cùng của năm.
Các album và đĩa mở rộng bán chạy nhất năm trên thị trường Hoa Kỳ được xếp thứ tự trên bảng xếp hạng Billboard 200 , xuất bản hằng tuần bởi tạp chí Billboard . Số liệu được Nielsen Soundscan theo dõi dựa trên doanh số vật lý và kỹ thuật số hằng tuần của mỗi album. Trong năm 2015, có tổng cộng 39 album đã đạt ngôi vị quán quân trên bảng xếp hạng. Trong số đó, album 1989 của nữ ca sĩ-nhạc sĩ nhạc đồng quê người Mỹ Taylor Swift bắt đầu chiếm lĩnh vị trí số 1 của bảng xếp hạng từ ấn bản ra ngày 3 tháng 1 năm 2015.[ 1] 1989 đồng thời cũng là album có số tuần quán quân nhiều nhất năm với 6 tuần ở vị trí quán quân và là album bán chạy nhất năm 2015 trước khi 25 của Adele vượt qua doanh số của album này để trở thành album có doanh số cao nhất trong 3 ngày và tính đến cuối năm.[ 2] Sản phẩm âm nhạc thứ tư của nghệ sĩ hip hop soul người Canada Drake , If You're Reading This It's Too Late , trở thành album bán chạy thứ ba trong danh sách và là album có doanh thu kỹ thuật số cao nhất năm với tổng cộng 535.000 đơn vị kỹ thuật số được tiêu thụ, bao gồm 495.000 đơn vị là doanh số album truyền thống.[ 3]
Một số album khác có thời lượng ở vị trí quán quân đáng kể gồm có To Pimp a Butterfly của Kendrick Lamar , Dreams Worth More Than Money của Meek Mill , Kill the Lights của Luke Bryan , Beauty Behind the Madness của The Weeknd , Traveller của Chris Stapleton và 25 của Adele. Chỉ có duy nhất 4 album trải qua 2 tuần quán quân, trong khi 2 album còn lại nắm giữ vị trí số một trong 3 tuần. Xuyên suốt năm 2015, chỉ có 2 nghệ sĩ có nhiều hơn 2 album quán quân trên bảng xếp hạng: Drake với If You're Reading This It's Too Late và What a Time to be Alive , và Future với DS2 và What a Time to be Alive .
25 của Adele bán ra 1,9 triệu bản sau 2 ngày phát hành, và 2,3 triệu bản sau 3 ngày, qua đó trở thành album bán nhanh nhất của thế kỷ 21 và là album bán chạy nhất năm 2015.[ 2] [ 4] [ 5] [ 6] [ 7] Doanh số của album cán mốc 2,433 triệu bản chỉ trong 4 ngày đầu tiên, phá kỷ lục doanh số trong một tuần của một album kể từ khi Nielsen Soundscan bắt đầu theo dõi doanh số năm 1991, vốn được album No Strings Attached của *NSYNC nắm giữ với 2,416 triệu bản bán được trong tuần lễ ra mắt vào tháng 3 năm 2000.[ 8] Tính đến ngày thứ 5, 25 đã bán được 2,8 triệu bản, trong đó có 1,45 triệu bản kỹ thuật số, phá kỷ lục doanh thu kỹ thuật số của một album trong tuần đầu phát hành.[ 9] Tổng cộng, album này đã đạt doanh số 3,38 triệu bản tại Mỹ trong tuần đầu tiên, trở thành album đầu tiên bán được 3 triệu bản trong một tuần, và cũng là album thứ hai duy nhất bán ra hơn 2 triệu bản trong một tuần.[ 10]
Kể từ tháng 7 năm 2015, lịch trình theo dõi doanh số trong một tuần bắt đầu từ thứ Sáu (để trùng với Ngày Phát hành Toàn Cầu của ngành công nghiệp âm nhạc) và kết thúc vào thứ Năm.[ 11]
Album phòng thu thứ năm của Taylor Swift , 1989 , là album bán chạy thứ nhì của năm và trở lại ngôi vị quán quân bảng xếp hạng Billboard 200 trong tổng cộng 6 tuần vào đầu năm 2015.
Nghệ sĩ nhạc hip hop soul người Canada Drake có được album quán quân thứ tư không liên tiếp tại thị trường Mỹ với mixtape If You're Reading This It's Too Late .
Ca sĩ-nhạc sĩ nhạc pop Kelly Clarkson thu được album quán quân thứ ba trong sự nghiệp với Piece by Piece .
To Pimp a Butterfly là album quán quân đầu tiên trên bảng xếp hạng của rapper đến từ bờ Tây nước Mỹ, Kendrick Lamar .
Ca sĩ nhạc pop người Canada The Weeknd có được album quán quân đầu tiên tại quốc gia này với album phòng thu thứ hai của anh, Beauty Behind the Madness .
Chú thích
Chỉ album quán quân bảng xếp hạng cuối năm 2015 của Billboard [ 12]
^ Caulfield, Keith (24 tháng 12 năm 2014). “Taylor Swift Back at No. 1 on Billboard 200, Nicki Minaj Debuts at No. 2” . Billboard . Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2014 .
^ a b “Adele's '25' Already 2015's Biggest Selling Album in U.S. - Billboard” . Billboard. 23 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2015 .
^ “Drake Has the Top Selling Digital Album of 2015 - Complex” . Complex . 9 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2015 .
^ Sisario, Ben (22 tháng 11 năm 2015). “Adele's 25 on Track to Break Sales Records” . The New York Times . Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (23 tháng 11 năm 2015). “Adele's '25' Sells 2.3 Million in First Three Days in U.S., Aiming for 2.9 Million Debut Week” . Billboard . Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2015 .
^ “Adele's '25' Is Already 2015's Biggest-Selling Album” . Billboard . Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2015 .
^ “Adele's '25' Became 2015's Best-Selling Album In Just 3 Days” . Forbes . Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2015 .
^ “Official: Adele Breaks *NSYNC's Single-Week U.S. Album Sales Record” . Billboard . Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2015 .
^ “Adele's '25' Sales Up to 2.8 Million in U.S., Headed for 3 Million Debut Week” . Billboard . Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2015 .
^ “Adele's '25' Official First Week U.S. Sales: 3.38 Million” . Billboard . 28 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2015 .
^ Billboard Staff (24 tháng 6 năm 2015). “Billboard to Alter Chart Tracking Week for Global Release Date” . Billboard . Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2015 .
^ “Billboard 200 Year-End Albums of 2015” .
^ Caulfield, Keith (24 tháng 12 năm 2014). “Taylor Swift Back at No. 1 on Billboard 200, Nicki Minaj Debuts at No. 2” . Billboard . Truy cập 24 tháng 12 năm 2014 .
^ Caulfield, Keith (31 tháng 12 năm 2014). “Taylor Swift's '1989' Spends Seventh Week at No. 1 on Billboard 200” . Billboard . Truy cập 31 tháng 12 năm 2014 .
^ Caulfield, Keith (7 tháng 1 năm 2015). “Taylor Swift's '1989' Earns Eighth Week at No. 1 on Billboard 200 Chart” . Billboard . Truy cập 7 tháng 1 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (14 tháng 1 năm 2015). “Taylor Swift's '1989' Spends a Ninth Week at No. 1 on Billboard 200 Chart” . Billboard . Truy cập 14 tháng 1 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (21 tháng 1 năm 2015). “Meghan Trainor's 'Title' Album Earns Mighty Debut at No. 1 on Billboard 200” . Billboard . Truy cập 21 tháng 1 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (28 tháng 2 năm 2015). “Fall Out Boy Scores Third No. 1 Album on Billboard 200” . Billboard . Truy cập 28 tháng 2 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (4 tháng 2 năm 2015). “Taylor Swift's '1989' Scores Milestone 10th Week at No. 1 on Billboard 200 Chart” . Billboard . Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (11 tháng 2 năm 2015). “Taylor Swift's '1989' Spends 11th Week at No. 1 on Billboard 200 Chart” . Billboard . Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (18 tháng 2 năm 2015). “Drake's Surprise Album Debuts at No. 1 on Billboard 200” . Billboard . Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (25 tháng 2 năm 2015). “Imagine Dragons Slay at No. 1 on Billboard 200 Chart” . billboard.com (bằng tiếng Anh). Prometheus Global Media . Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2015 . Quản lý CS1: ngày tháng và năm (liên kết )
^ Caulfield, Keith (4 tháng 3 năm 2015). “Big Sean Scores His First No. 1 Album on Billboard 200” . billboard.com (bằng tiếng Anh). Prometheus Global Media . Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2015 . Quản lý CS1: ngày tháng và năm (liên kết )
^ Caulfield, Keith (11 tháng 3 năm 2015). “Kelly Clarkson Claims Her Third No. 1 Album on Billboard 200 Chart” . billboard.com (bằng tiếng Anh). Prometheus Global Media . Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2015 . Quản lý CS1: ngày tháng và năm (liên kết )
^ Caulfield, Keith (18 tháng 3 năm 2015). “' Empire,' Madonna and Luke Bryan Debut in Top Three on Billboard 200” . billboard.com (bằng tiếng Anh). Prometheus Global Media . Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2015 . Quản lý CS1: ngày tháng và năm (liên kết )
^ Caulfield, Keith (25 tháng 3 năm 2015). “Kendrick Lamar Earns His First No. 1 Album on Billboard 200 Chart” . billboard.com (bằng tiếng Anh). Prometheus Global Media . Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2015 . Quản lý CS1: ngày tháng và năm (liên kết )
^ Caulfield, Keith (1 tháng 4 năm 2015). “Kendrick Lamar Spends Second Week at No. 1 on Billboard 200 Chart” . billboard.com (bằng tiếng Anh). Prometheus Global Media . Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (8 tháng 4 năm 2015). “Wale Rules With Second No. 1 Album, 'Furious 7' Soundtrack Drives to No. 2” . billboard.com (bằng tiếng Anh). Prometheus Global Media . Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (15 tháng 4 năm 2015). “' Furious 7' Soundtrack Speeds to No. 1 on Billboard 200 Chart” . Billboard . Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (22 tháng 4 năm 2015). “Shawn Mendes' 'Handwritten' Debuts at No. 1 on Billboard 200 Chart” . Billboard . Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (29 tháng 4 năm 2015). “Alabama Shakes Scores Its First No. 1 Album on Billboard 200 Chart” . Billboard . Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (6 tháng 5 năm 2015). “Zac Brown Band Earns Third No. 1 Album on Billboard 200 Chart” . Billboard . Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (13 tháng 5 năm 2015). “Mumford & Sons Scores Second No. 1 Album on Billboard 200 Chart” . Billboard . Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (20 tháng 5 năm 2015). “' Pitch Perfect 2' Soundtrack Debuts at No. 1 on Billboard 200 Albums Chart” . Billboard . Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (27 tháng 5 năm 2015). “Twenty One Pilots Earns Its First No. 1 Album on Billboard 200 Chart” . Billboard . Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (3 tháng 6 năm 2015). “A$AP Rocky Earns Second No. 1 Album on Billboard 200 Chart” . Billboard . Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (10 tháng 6 năm 2015). “Florence + the Machine Scores First No. 1 Album on Billboard 200 Chart” . Billboard . Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (17 tháng 6 năm 2015). “Muse Earns Its First No. 1 Album on Billboard 200 Chart” . Billboard . Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (24 tháng 6 năm 2015). “After 45-Year Wait, James Taylor Earns His First No. 1 Album on Billboard 200 Chart” . Billboard . Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (1 tháng 7 năm 2015). “Breaking Benjamin Earns Its First No. 1 Album on the Billboard 200 Chart” . Billboard . Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (8 tháng 7 năm 2015). “Meek Mill Claims His First No. 1 Album on the Billboard 200 Chart” . Billboard . Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (12 tháng 7 năm 2015). “Meek Mill Reigns Again at No. 1 on Billboard 200 Chart Chart” . Billboard . Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (19 tháng 7 năm 2015). “Tyrese Scores His First No. 1 Album on Billboard 200 Chart” . Billboard . Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (26 tháng 7 năm 2015). “Future Earns His First No. 1 Album on Billboard 200 Chart” . Billboard . Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (3 tháng 8 năm 2015). “Jill Scott Scores Her Second No. 1 Album on Billboard 200 Chart” . Billboard . Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (9 tháng 8 năm 2015). “' Descendants' Soundtrack Debuts at No. 1 on Billboard 200 Albums Chart” . Billboard . Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (16 tháng 8 năm 2015). “Luke Bryan Bows at No. 1 on Billboard 200 Albums Chart, Dr. Dre Debuts at No. 2” . Billboard . Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (23 tháng 8 năm 2015). “Luke Bryan's 'Kill the Lights' Spends Second Week at No.1 on Billboard 200” . billboard.com (bằng tiếng Anh). Prometheus Global Media. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (30 tháng 8 năm 2015). “Disturbed Scores Fifth No. 1 Album on Billboard 200 Chart” . Billboard . Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (6 tháng 9 năm 2015). “The Weeknd's 'Beauty Behind the Madness' Debuts at No. 1 on Billboard 200 Chart” . Billboard . Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (13 tháng 9 năm 2015). “The Weeknd Spends Second Week at No. 1 on Billboard 200 Albums Chart” . Billboard . Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (20 tháng 9 năm 2015). “The Weeknd Earns Third Week at No. 1 on Billboard 200 Albums Chart” . Billboard . Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (27 tháng 9 năm 2015). “Drake and Future's Surprise Album Debuts at No. 1 on Billboard 200 Chart” . Billboard . Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (27 tháng 9 năm 2015). “Seven Debuts Hit Top 10 of Billboard 200 Chart, Led by Drake & Future, Lana Del Rey and Mac Miller” . Billboard . Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (4 tháng 10 năm 2015). “Fetty Wap Debuts at No. 1 on Billboard 200 Albums Chart” . Billboard . Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (11 tháng 10 năm 2015). “Janet Jackson Earns Historic Seventh No. 1 Album on Billboard 200 Chart” . Billboard . Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (18 tháng 10 năm 2015). “Selena Gomez Scores Her Second No. 1 Album on Billboard 200 Chart” . Billboard . Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (26 tháng 10 năm 2015). “Pentatonix Scores First No. 1 Album on Billboard 200 Chart” . Billboard . Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (1 tháng 11 năm 2015). “5 Seconds of Summer Earns Second No. 1 Album on Billboard 200 Chart” . Billboard . Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (8 tháng 11 năm 2015). “Chris Stapleton Soars to No. 1 on Billboard 200 Albums Chart After CMAs” . Billboard . Prometheus Global Media. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (15 tháng 11 năm 2015). “Chris Stapleton Spends Second Week at No. 1 on Billboard 200 Albums Chart” . Billboard . Prometheus Global Media. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (22 tháng 11 năm 2015). “Justin Bieber Scores Sixth No. 1 Album on Billboard 200 Chart With 'Purpose' ” . Billboard . Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (29 tháng 11 năm 2015). “Adele's '25' Debuts at No. 1 on Billboard 200 Albums Chart, '21' Returns to Top 10” . Billboard . Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (6 tháng 12 năm 2015). “Adele's '25' Spends Second Week at No. 1 on Billboard 200 Chart” . Billboard . Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2015 .
^ Caulfield, Keith (13 tháng 12 năm 2015). “Adele's '25' Rules for Third Week at No. 1, Coldplay Debuts at No. 2 on Billboard 200” . Billboard . Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2015 .
1945–1959 1960–1979 1980–1999 2000–2019 2020–2039