Beauty Behind the Madness

Beauty Behind the Madness
Album phòng thu của The Weeknd
Phát hành28 tháng 8 năm 2015 (2015-08-28)
Thu âmtháng 10 năm 2013–tháng 7 năm 2015; Conway Recording Studios
Thể loại
Thời lượng65:24
Hãng đĩa
Sản xuất
Thứ tự album của The Weeknd
Kiss Land
(2013)
Beauty Behind the Madness
(2015)
Đĩa đơn từ Beauty Behind the Madness
  1. "Often"
    Phát hành: 31 tháng 7 năm 2014
  2. "The Hills"
    Phát hành: 27 tháng 5 năm 2015 (2015-05-27)
  3. "Can't Feel My Face"
    Phát hành: 8 tháng 6 năm 2015 (2015-06-08)

Beauty Behinhd the Madness là album phòng thu thứ hai của nam ca sĩ người Canada The Weeknd. Album phát hành vào ngày 28 tháng 8 năm 2015, bởi XO và Republic Records.[4] Album có sự tham gia hợp tác của các nghệ sĩ và các nhà sản xuất âm nhạc khác như Labrinth, Ed Sheeran, Kanye West, Lana Del Rey và Maty Noyes.

Album được hỗ trợ bởi 4 đĩa đơn. "Often" phát hành thành đĩa đơn mở đường cho album vào ngày 31 tháng 7 năm 2014. "The Hills" và "Can't Feel My Face" lần lượt được phát hành thành các đĩa đơn thứ hai và thứ ba vào ngày 27 tháng 5 và 8 tháng 6 năm 2015. Hai ca khúc này đều đã giành ngôi quán quân bảng xếp hạng US Billboard Hot 100. Beauty Behind the Madness cũng bao gồm ca khúc "Earned It" phát hành thành đĩa đơn mở đường cho album nhạc phim Fifty Shades of Grey: Original Motion Picture Soundtrack vào ngày 23 tháng 12 năm 2014.

Các đĩa đơn

[sửa | sửa mã nguồn]

Đĩa đơn mở đường cho album, "Often", ra mắt vào ngày 31 tháng 7 năm 2014. Ca khúc lần lượt đạt đến các vị trí #59 và #69 trên hai bảng xếp hạng US Billboard Hot 100 và Canada Hot 100.

Đĩa đơn thứ hai từ album, "The Hills", phát hành vào ngày 27 tháng 5 năm 2015. Ca khúc xuất hiện trên bảng xếp hạng US Billboard Hot 100 tại vị trí thứ 20 trong bảng xếp hạng tuần 13 tháng 6 năm 2015; trở thành đĩa đơn có vị trí ra mắt cao nhất của tuần.[5] Thành công này đến từ lượng tải kĩ thuật số (109.000 bản) và 5,2 triệu lượt stream, do việc ra mắt video âm nhạc cùng ngày với ngày phát hành đĩa đơn.[6] Tuần kế tiếp, ca khúc lùi một bậc nhưng lượng stream được gia tăng đáng kể..[7] Tính đến tháng 9 năm 2015, "The Hills" đã bán ra 1.012.633 bản tại quốc gia và đạt ngôi quán quân trên US Billboard Hot 100, trở thành đĩa đơn quán quân thứ hai của The Weeknd, đồng thời cũng đưa anh trở thành một trong số ít các nghệ sĩ có ca khúc liên tục thay phiên nhau giữ vị trí quán quân.[8]

Đĩa đơn thứ ba của album, "Can't Feel My Face", phát hành vào ngày 8 tháng 6 năm 2015, sau khi The Weeknd trình diễn ca khúc tại hội nghị các nhà phát triển toàn cầu (Worldwide Developers Conference) của Apple diễn ra cùng ngày.[9] Ca khúc ra mắt ở vị trí thứ 24 trên US Billboard Hot 100. Ca khúc thu về lượng tải kĩ thuật số trong tuần đầu đạt 93.000 bản, cộng với 4,2 triệu lượt stream tại Hoa Kỳ và 38 triệu lượt chơi trên các đài phát thanh.[10] Trong tuần thứ ba trên bảng xếp hạng, ca khúc vươn tới vị trí thứ 6 trên Hot 100, trở thành đĩa đơn top 10 thứ ba, và là đĩa đơn hát đơn top 10 thứ hai của anh. Năm tuần sau đó, ca khúc chiếm giữ ngôi vị quán quân của Hot 100, trở thành đĩa đơn quán quân đầu tiên của The Weeknd trên bảng xếp hạng. Ca khúc quay trở lại vị trí quán quân hai lần, qua đó trở thành ca khúc thứ sáu trong lịch sử Billboard Hot 100 làm được điều này, và cũng là ca khúc đầu tiên đạt được thành công trên kể từ năm 2011.[11] Ca khúc ra mắt ở vị trí thứ 27 tại Úc trong tuần 20 tháng 6,[12] trước khi leo lên ngôi vị á quân trong tháng 7. Tính đến tháng 9 năm 2015, doanh số của "Can't Feel My Face" trên thị trường Hoa Kỳ đạt 1.288.942 bản.[13]

Phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 4 tháng 7 năm 2015, The Weeknd tham gia biểu diễn tại FVDED tại Park ở Surrey, BC, Canada. Ngày 9 tháng 7, The Weeknd tiếp tục quảng bá cho album thông qua việc tham dự các nhạc hội mùa hè, bao gồm Lollapalooza ở Chicago, nhạc hội Hard Summer ở Pomona, CA, Summer Set Music và Camping Festival ở Somerset, WI, nhạc hội Philadelphia's Made in America, Austin City Limits tại Austin, và nhạc hội Seattle's Bumbershoot.[14]

Điều này dẫn đến việc 3 ca khúc trong album bị rò rỉ trong tháng 5 năm: "In the Night", "Can't Feel My Face", và một phiên bản chưa hoàn thiện của "Acquainted", mà sau này được cho là của "Girls Born in the 90s" — ca khúc gần như được làm lại trước khi phát hành.[cần dẫn nguồn]

Đánh giá chuyên môn

[sửa | sửa mã nguồn]
Đánh giá chuyên môn
Điểm trung bình
NguồnĐánh giá
Metacritic74/100[15]
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AllMusic[16]
Chicago Tribune[17]
DEAD PRESS![18]
Entertainment WeeklyB[19]
HipHopDX[20]
NME7/10[21]
The Observer[22]
Pitchfork Media7.2/10[23]
Spin7/10[24]

Sau khi phát hành, Beauty Behind the Madness nhận được những đánh giá tích cực từ giới phê bình âm nhạc. Trên Metacritic, trang đánh giá theo thang điểm 100 dựa trên các đánh giá của hệ thống các nhà phê bình, album nhận được điểm số 74, dựa trên 24 bài đánh giá.[15]

Diễn biến thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 31 tháng 8 năm 2015, Billboard cho biết Beauty Behind the Madness có thể đạt doanh số xấp xỉ 300.000 bản trong tuần đầu phát hành tại Hoa Kỳ.[25] Album ra mắt ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng US Billboard 200, với 412.000 đơn vị bán ra (326.000 bản là album truyền thống), trở thành album quán quân đầu tiên của The Weeknd.[26] Album giữ vị trí này trong tuần thứ hai với 145.000 đơn vị quy đổi, 77.000 bản truyền thống.[27] The Weeknd tiếp tục chiếm lĩnh ngôi vị quán quân trong tuần thứ 3 liên tiếp, album bán ra 99.000 đơn vị trong tuần thứ 3, nâng tổng doanh số của album trong 3 tuần đầu phát hành lên 656.000 bản.[28]

Danh sách bài hát

[sửa | sửa mã nguồn]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Real Life"
  • The Weeknd
  • DaHeela
  • Moccio
3:43
2."Losers" (hợp tác với Labrinth)
4:41
3."Tell Your Friends"
5:34
4."Often"
  • The Weeknd
  • Ben Billions
  • DaHeela
4:09
5."The Hills"
  • Tesfaye
  • Montagnese
  • Emmanuel Nickerson
  • Balshe
  • Million $ Mano
  • JayFrance
  • Illangelo
4:02
6."Acquainted"
  • Tesfaye
  • Quenneville
  • Schofield
  • Montagnese
  • Diehl
5:48
7."Can't Feel My Face"
  • Martin
  • Payami
3:33
8."Shameless"
  • Abel Tesfaye
  • Eric Svensson
  • Mike Kotecha
  • Larry Payami
  • Vlad Balshe
  • Martin
  • Payami
  • Svensson
  • The Weeknd
4:13
9."Earned It"
  • Tesfaye
  • Moccio
  • Quenneville
  • Balshe
  • Moccio
  • DaHeela
4:37
10."In the Night"
  • Tesfaye
  • Balshe
  • Payami
  • Kotecha
  • Svensson
  • Martin
  • Martin
  • Payami
  • The Weeknd[a]
3:55
11."As You Are"
  • Tesfaye
  • Balshe
  • Schofield
  • Quenneville
  • Montagnese
  • The Weeknd
  • Illangelo
  • DaHeela
  • Danny Boy Styles
5:40
12."Dark Times" (hợp tác với Ed Sheeran)
  • Tesfaye
  • Quenneville
  • Ed Sheeran
Illangelo4:20
13."Prisoner" (hợp tác với Lana Del Rey)
  • Illangelo
  • The Weeknd
4:34
14."Angel"
  • Tesfaye
  • Moccio
  • Schofield
  • Diehl
  • The Weeknd
  • Moccio
  • Danny Boy Styles
6:17
Tổng thời lượng:65:24
Ghi chú
  • ^[a] chỉ người đồng sản xuất
  • ^[b] chỉ người hỗ trợ sản xuất
Các bài hát lấy mẫu
  • "Tell Your Friends" có chứa phần lấy mẫu từ ca khúc "Can't Stop" của Theophilus London hợp tác với Kanye West.
  • "Angel" có chứa phần hát của một ca sĩ khách mời không được ghi vào phần credit, người này có tên là Maty Noyes, một ca sĩ đến từ LA.
  • "Angel" cũng chứa một phần lấy mẫu khác từ ca khúc "My Way" của Fetty Wap hợp tác với Monty trong phần tiền hát bè.

Xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]
Bảng xếp hạng (2015) Vị trí
cao nhất
Album Úc (ARIA)[29] 1
Album Áo (Ö3 Austria)[30] 7
Album Bỉ (Ultratop Vlaanderen)[31] 2
Album Bỉ (Ultratop Wallonie)[32] 10
Album Canada (Billboard)[33] 1
Album Đan Mạch (Hitlisten)[34] 2
Album Hà Lan (Album Top 100)[35] 2
Album Phần Lan (Suomen virallinen lista)[36] 12
Album Pháp (SNEP)[37] 6
Album Đức (Offizielle Top 100)[38] 7
Album Ireland (IRMA)[39] 2
Album Ý (FIMI)[40] 21
Album Hàn Quốc (Gaon)[41] 60
Album Quốc tế Hàn Quốc (Gaon)[42] 8
Album New Zealand (RMNZ)[43] 2
Album Na Uy (VG-lista)[44] 1
Album Bồ Đào Nha (AFP)[45] 7
Album Thụy Điển (Sverigetopplistan)[46] 3
Album Thụy Sĩ (Schweizer Hitparade)[47] 4
Album Anh Quốc (OCC)[48] 1
UK R&B Albums (OCC)[49] 1
Hoa Kỳ Billboard 200[50] 1
Hoa Kỳ Top R&B/Hip-Hop Albums (Billboard)[51] 1

Lịch sử phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]
Khu vực Ngày phát hành Định dạng Nhãn hiệu
Toàn cầu 28 tháng 8 năm 2015

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Log In”. Truy cập 19 tháng 9 năm 2015.
  2. ^ HipHopDX (ngày 26 tháng 8 năm 2015). “The Weeknd - Beauty Behind The Madness”. HipHopDX.
  3. ^ Damien Scott. “Review: The Weeknd's 'Beauty Behind the Madness' - Complex”. Complex.
  4. ^ Beauchemin, Molly (ngày 9 tháng 7 năm 2015). “The Weekend Announces New Album Beauty Behind the Madness”. Pitchfork Media. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2015.[liên kết hỏng]
  5. ^ “The Hot 100: The Week of ngày 13 tháng 6 năm 2015”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2015.
  6. ^ Mendizabal, Amaya (ngày 4 tháng 6 năm 2015). “The Weeknd's 'The Hills' Makes Top 10 Debut on Hot R&B Songs”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2015.
  7. ^ “The Hot 100: The Week of ngày 20 tháng 6 năm 2015”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2015.
  8. ^ “The Weeknd replaces himself at No. 1 with 'The Hills'. Billboard.com. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2015.
  9. ^ Kreps, Daniel (ngày 8 tháng 6 năm 2015). “Hear the Weeknd's Funky New Song 'Can't Feel My Face'. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2015.
  10. ^ “Hot 100 Chart Moves: The Weeknd Debuts With 'Can't Feel My Face'. Billboard. ngày 19 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2015.
  11. ^ “OMI's 'Cheerleader' Tops Hot 100, The Weeknd Closes In”. Billboard. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2015.
  12. ^ “ARIA Australian Top 50 Singles Chart”. Australian Recording Industry Association. ngày 22 tháng 6 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2015.
  13. ^ HipHopDX (ngày 29 tháng 8 năm 2015). “Hip Hop Single Sales: The Weeknd, Silentó & Fetty Wap”. HipHopDX.
  14. ^ “The Weeknd's new album is coming Aug. 28”. usatoday.com. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2015.
  15. ^ a b “Reviews for Beauty Behind the Madness on Metacritic”. Metacritic. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2015.
  16. ^ Kellman, Andy. “Beauty Behind the Madness – The Weeknd”. AllMusic. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2015.
  17. ^ Kot, Greg (ngày 31 tháng 8 năm 2015). “The Weeknd's pop can't shake the darkness”. Chicago Tribune. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2015.
  18. ^ Redrup, Zach. “REVIEW: The Weeknd - Beauty Behind The Madness”. DEAD PRESS!. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2015.[liên kết hỏng]
  19. ^ Anderson, Kyle (ngày 28 tháng 8 năm 2015). “Beauty Behind the Madness by The Weeknd: EW review”. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2015.
  20. ^ Dowling, Marcus (ngày 26 tháng 8 năm 2015). “The Weeknd – Beauty Behind The Madness”. HipHopDX. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2015.
  21. ^ Welsh, April Clare (ngày 28 tháng 8 năm 2015). “The Weeknd – 'Beauty Behind The Madness'. NME. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2015.
  22. ^ Empire, Kitty (ngày 30 tháng 8 năm 2015). “The Weeknd: Beauty Behind the Madness review – a dark seduction of the mainstream”. The Observer. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2015.
  23. ^ Ryce, Andrew (ngày 2 tháng 9 năm 2015). “The Weeknd: Beauty Behind the Madness”. Pitchfork Media. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2015.
  24. ^ Brown, Harley (ngày 28 tháng 8 năm 2015). “Review: All Hail the King of P*ssy-Pop on the Weeknd's 'Beauty Behind the Madness'. Spin. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2015.
  25. ^ “The Weeknd Set for Big No. 1 Debut on Billboard 200 Albums Chart”. Billboard. ngày 31 tháng 8 năm 2015.
  26. ^ “The Weeknd's "Beauty Behind The Madness" First Week Sales Are In”. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2015.
  27. ^ “The Weeknd Spends Second Week at No. 1 on Billboard 200 Albums Chart”. Billboard. ngày 12 tháng 9 năm 2015.
  28. ^ http://www.forbes.com/sites/hughmcintyre/2015/09/22/the-weeknd-spends-a-third-consecutive-week-atop-the-albums-chart/work=Billboard”. ngày 22 tháng 9 năm 2015. Liên kết ngoài trong |title= (trợ giúp); |url= trống hay bị thiếu (trợ giúp)
  29. ^ "Australiancharts.com – The Weeknd – Beauty Behind the Madness" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2015.
  30. ^ "Austriancharts.at – The Weeknd – Beauty Behind the Madness" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2015.
  31. ^ "Ultratop.be – The Weeknd – Beauty Behind the Madness" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2015.
  32. ^ "Ultratop.be – The Weeknd – Beauty Behind the Madness" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2015.
  33. ^ "The Weeknd Chart History (Canadian Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2015.
  34. ^ "Danishcharts.dk – The Weeknd – Beauty Behind the Madness" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2015.
  35. ^ "Dutchcharts.nl – The Weeknd – Beauty Behind the Madness" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2015.
  36. ^ "The Weeknd: Beauty Behind the Madness" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2015.
  37. ^ "Lescharts.com – The Weeknd – Beauty Behind the Madness" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2015.
  38. ^ "Longplay-Chartverfolgung at Musicline" (bằng tiếng Đức). Musicline.de. Phononet GmbH. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2015 – qua Wayback Machine. Ghi chú: Di chuyển ngày lưu trữ mới nhất (còn hoạt động) để có thông tin chính xác về thứ hạng của album.
  39. ^ "GFK Chart-Track Albums: Week 36, 2015". Chart-Track. IRMA. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2015.
  40. ^ "Italiancharts.com – The Weeknd – Beauty Behind the Madness" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2015.
  41. ^ "South Korea Gaon Album Chart". Trên trang này, chọn "2015.08.30~2015.09.05" để có được biểu đồ tương ứng. Gaon Chart Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2015.
  42. ^ "South Korea Gaon International Album Chart". Trên trang này, chọn "2015.08.30~2015.09.05", sau đó "국외", để có được biểu đồ tương ứng. Gaon Chart Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2014.
  43. ^ "Charts.nz – The Weeknd – Beauty Behind the Madness" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2015.
  44. ^ "Norwegiancharts.com – The Weeknd – Beauty Behind the Madness" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2015.
  45. ^ "Portuguesecharts.com – The Weeknd – Beauty Behind the Madness" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2015.
  46. ^ "Swedishcharts.com – The Weeknd – Beauty Behind the Madness" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2015.
  47. ^ "Swisscharts.com – The Weeknd – Beauty Behind the Madness" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2015.
  48. ^ 4 tháng 9 năm 2015/7502/ "Official Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2015.
  49. ^ 4 tháng 9 năm 2015/115/ "Official R&B Albums Chart Top 40" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company.
  50. ^ "The Weeknd Chart History (Billboard 200)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2015.
  51. ^ "The Weeknd Chart History (Top R&B/Hip-Hop Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2015.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Nhật Bản xả nước phóng xạ đã qua xử lý ra biển có an toàn?
Nhật Bản xả nước phóng xạ đã qua xử lý ra biển có an toàn?
Phóng xạ hay phóng xạ hạt nhân là hiện tượng một số hạt nhân nguyên tử không bền tự biến đổi và phát ra các bức xạ hạt nhân
Giới thiệu nhân vật Cha Hae-In - Solo Leveling
Giới thiệu nhân vật Cha Hae-In - Solo Leveling
Cha Hae-In (차해인) là Thợ săn hạng S người Hàn Quốc và là Phó chủ tịch của Hội thợ săn.
Những điều thú vị về người anh em Lào
Những điều thú vị về người anh em Lào
Họ không hề vội vã trên đường, ít thấy người Lào cạnh tranh nhau trong kinh doanh, họ cũng không hề đặt nặng mục tiêu phải làm giàu
[Review] Wonder Woman 1984: Nữ quyền, Sắc tộc và Con người
[Review] Wonder Woman 1984: Nữ quyền, Sắc tộc và Con người
Bối cảnh diễn ra vào năm 1984 thời điểm bùng nổ của truyền thông, của những bản nhạc disco bắt tai và môn thể dục nhịp điệu cùng phòng gym luôn đầy ắp những nam thanh nữ tú