Hội đồng Bắc Âu
|
|
---|---|
Tên bản ngữ
| |
Quốc kỳ | |
Các quốc gia thành viên và khu vực của Hội đồng Bắc Âu (xanh lam). | |
Tổng quan | |
Trụ sở | Copenhagen |
Ngôn ngữ chính thức | |
Kiểu | Tổ chức liên nghị viện |
Chính trị | |
Lãnh đạo | |
Kristina Háfoss | |
• Chủ tịch | Silja Dögg Gunnarsdóttir |
• Phó Chủ tịch | Oddný Harðardóttir |
Lịch sử | |
Thành lập | |
• Hội đồng Bắc Âu ra đời | 12 tháng 2 năm 1953 |
1 tháng 7 năm 1962 | |
• Hội đồng Bộ trưởng Bắc Âu ra đời | Tháng 7 năm 1971 |
Thành viên | 5 thành viên
3 lãnh thổ |
Địa lý | |
Dân số | |
• Ước lượng 2018 | 27.210.000 |
Kinh tế | |
Đơn vị tiền tệ | 5 đồng tiền |
Thông tin khác | |
Trang web www |
Hội đồng Bắc Âu là cơ quan chính thức cho hợp tác liên chính phủ giữa các quốc gia Bắc Âu. Thành lập năm 1952, hội đồng có 87 đại diện từ Đan Mạch, Iceland, Na Uy, Phần Lan, và Thụy Điển cùng với các vùng tự trị như Quần đảo Faroe, Greenland, và Quần đảo Åland. Đại diện của hội đồng là những nghị sĩ của quốc gia tương ứng và được bầu chọn bởi nghị viện của mỗi nước. Hội đồng tổ chức các cuộc họp thường niên vào tháng 10–11 và thường một đợt họp bổ sung về một chủ đề cụ thể mỗi năm.[1] Các ngôn ngữ chính thức của hội đồng là tiếng Đan Mạch, Iceland, Na Uy, Phần Lan, và Thụy Điển, tuy nhiên thường chỉ những ngôn ngữ Scandinavia chung—tiếng Đan Mạch, Na Uy và Thụy Điển—được sử dụng.[2] Ba thứ tiếng này là tiếng mẹ đẻ của khoảng 80% dân số trong vùng và là ngôn ngữ thứ hai của 20% còn lại.[3]
Năm 1971, Hội đồng Bộ trưởng Bắc Âu, một diễn đàn liên chính phủ, được thành lập để hỗ trợ cho Hội đồng Bắc Âu. Cả hai hội đồng đều tham gia hợp tác với những khu vực láng giềng ở Bắc Âu, bao gồm bang Schleswig-Holstein của Đức, các nước Benelux, các quốc gia Baltic và Nga.[4][5][6]
Hội đồng Bắc Âu đưa ra các sáng kiến và giữ vai trò cố vấn cho các chính phủ trong khu vực về các vấn đề liên quan tới việc hợp tác chính thức giữa các nước Bắc Âu. Các quyết định của Hội đồng không có tính cách bắt buộc các nước hội viên phải tuân thủ, mà phải được các nghị viện của từng nước phê chuẩn.
Hội đồng Bắc Âu gồm 87 đại biểu là nghị sĩ của các quốc hội mỗi nước, được chính quốc hội của mình đề cử vào Hội đồng (không do dân trực tiếp bầu).
Mỗi nước hội viên có 20 đại biểu, ngoại trừ Iceland chỉ có 7 đại biểu. Greenland và Quần đảo Faroe mỗi lãnh thổ có 2 đại biểu nằm trong đoàn đại biểu Đan Mạch. Quần đảo Åland cũng có 2 đại biểu nằm trong đoàn đại biểu Phần Lan.
Các đại biểu của các nước và lãnh thổ tự trị cùng năm gia nhập:
Hội đồng được lãnh đạo bởi một chủ tịch đoàn gồm 12 đại biểu và một chủ tịch được phiên họp toàn thể bầu chọn ra mỗi năm một lần. Chức chủ tịch luân phiên thay đổi giữa các nước hội viên.
Nhiệm vụ hàng đầu của chủ tịch đoàn là:
Hội đồng Bắc Âu đặt trụ sở tại Copenhagen cùng chung địa chỉ với Hội đồng bộ trưởng Bắc Âu và mỗi đoàn có các văn phòng ở từng nước hội viên.
Mỗi năm Hội đồng Bắc Âu họp một phiên họp toàn thể (phiên họp khoáng đại) thường là vào mùa thu. Phiên họp này gồm đầy đủ 87 đại biểu, có quyền quyết định cao nhất. Mỗi chính phủ cũng cử một đại diện tham dự, nhưng vị này không có quyền bỏ phiếu.
Nhiệm vụ của phiên họp toàn thể là:
Hội đồng cũng tổ chức các khóa họp bất thường, chuyên về một đề tài thời sự. Các nước hội viên luân phiên tổ chức các cuộc họp của Hội đồng.
Hội đồng có 5 tiểu ban phụ trách các lãnh vực sau:
Các tiểu ban làm việc trong thời gian Hội đồng ngưng họp.
Có 4 nhóm đảng chính trị trong Hội đồng:
Để lập một nhóm đảng trong Hội đồng, đòi phải có ít nhất 5 đại biểu thuộc 3 nước hội viên. Hiện nay có 6 đại biểu của Hội đồng không thuộc nhóm đảng nào.
Ngôn ngữ làm việc chính thức của Hội đồng là tiếng Đan Mạch, tiếng Thụy Điển và tiếng Na Uy. Tiếng Phần Lan chưa được chọn làm ngôn ngữ chính thức, mặc dù có nhiều người nói tiếng này.
Ngoài ra Hội đồng cũng in và phát hành các tài liệu bằng tiếng Phần Lan, tiếng Iceland và tiếng Anh.