Bữa | Bữa sáng, tối |
---|---|
Xuất xứ | Việt Nam |
Vùng hoặc bang | Đông Nam Á |
Ẩm thực quốc gia kết hợp | Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam |
Sáng tạo bởi | Người Tiều, người Việt |
Năm sáng chế | Giữa thế kỷ 20 |
Thành phần chính | Bánh hủ tiếu, thịt gia súc, thịt gia cầm, hải sản, nước dùng (làm từ xương heo, rau củ) |
Biến thể | Hủ tiếu Nam Vang, hủ tiếu Mỹ Tho, hủ tiếu bò kho, hủ tiếu xào |
400 kcal (1675 kJ) | |
Hủ tiếu | |||||||||||
Tên tiếng Trung | |||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tiếng Trung | 粿條 | ||||||||||
| |||||||||||
Tên tiếng Việt | |||||||||||
Tiếng Việt | hủ tiếu | ||||||||||
Tên tiếng Thái | |||||||||||
Tiếng Thái | ก๋วยเตี๋ยว |
Ẩm thực Sài Gòn |
---|
Hủ tiếu (bắt nguồn từ tiếng Triều Châu “粿條” guê2diou5,[1] âm Hán Việt: quả điều), còn được viết là hủ tíu (trong phương ngữ tiếng Việt miền Nam tiếu đồng âm với tíu), là món ăn dùng chế phẩm gạo dạng sợi của người Triều Châu và người Mân Nam, có nhiều điểm tương tự như sa hà phấn của người Quảng Đông và bản điều của người Khách Gia, được truyền nhập tới nhiều vùng ở trong và ngoài nước Trung Quốc, trở thành món ăn thường gặp ở vùng Hoa Nam Trung Quốc và khu vực Đông Nam Á như ở miền Nam Việt Nam, Campuchia, Lào, Thái Lan, Singapore, v.v.
Hủ tiếu phát triển rất mạnh ở miền Nam Việt Nam từ những năm 50, đặc biệt là tại Sài Gòn, rất dễ tìm thấy quán hủ tiếu trên đường phố hoặc xe hủ tiếu đẩy ở đầu hẻm.[2] Có thể nói Hủ tiếu là món ăn đặc trưng tại đây, tương tự như phở ở Hà Nội hay bún bò tại Huế. Hủ tiếu thường là món ăn sáng hoặc ăn tối, người miền Nam ít ăn trưa với hủ tiếu.
Nguyên liệu chính của món hủ tiếu là bánh hủ tiếu, nước dùng chính là với thịt bằm nhỏ, lòng heo nấu cùng. Sau đó trụng sơ bánh hủ tiếu với nước dùng, rồi cho các nguyên liệu phụ vào như giá đỗ, hẹ, thịt bằm vào. Có thể ăn với thịt bò viên và tương ớt, tương đen.
Hủ tiếu thịnh hành ở Nam Bộ, và có nhiều loại hủ tiếu:
Tất cả các loại hủ tiếu trên đều có thể tìm thấy ở Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh thành khác tại Việt Nam.