Lịch sử | |
---|---|
Anh Quốc | |
Tên gọi | HMS Terpischore (R33) |
Đặt hàng | 13 tháng 3 năm 1941 |
Xưởng đóng tàu | William Denny & Brothers, Dumbarton, Scotland |
Đặt lườn | 25 tháng 11 năm 1941 |
Hạ thủy | 17 tháng 6 năm 1943 |
Nhập biên chế | 20 tháng 1 năm 1944 |
Tái biên chế | 1954 |
Xuất biên chế | |
Số phận | Bán để tháo dỡ, tháng 5 năm 1966 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Lớp tàu khu trục T |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài |
|
Sườn ngang | 35 ft 8 in (10,87 m) |
Mớn nước | 14 ft 2 in (4,32 m) |
Động cơ đẩy | |
Tốc độ | 36,75 hải lý trên giờ (68,06 km/h; 42,29 mph) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 180-225 |
Vũ khí |
|
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | tàu frigate Kiểu 16 |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài | 362 ft 9 in (110,57 m) (chung) |
Sườn ngang | 37 ft 9 in (11,51 m) |
Mớn nước | 14 ft 6 in (4,42 m) |
Động cơ đẩy | |
Tốc độ | 32 hải lý trên giờ (59 km/h; 37 mph) (đầy tải) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 175 |
Hệ thống cảm biến và xử lý | |
Vũ khí |
|
HMS Terpsichore (R33/D48/F19) là một tàu khu trục lớp T được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trong Chương trình Khẩn cấp Chiến tranh để phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Sống sót qua cuộc chiến tranh, nó được cải biến thành một tàu frigate nhanh chống tàu ngầm Kiểu 16 vào năm 1953, mang ký hiệu lườn mới F19, và tiếp tục phục vụ cho đến khi bị tháo dỡ năm 1966.
Terpsichore được chế tạo tại xưởng tàu của hãng William Denny and Brothers ở Dumbarton, Scotland; và được đặt lườn vào ngày 25 tháng 11 năm 1941. Nó được hạ thủy vào ngày 17 tháng 6 năm 1943 và nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia vào ngày 20 tháng 1 năm 1944.
Terpsichore được đặt dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân Alfred Charles Behague từ tháng 11 năm 1943 đến ngày 5 tháng 1 năm 1945, và của Trung tá Hải quân từ ngày 5 tháng 1 năm 1945 đến tháng 10 năm 1945.
Sau chiến tranh nó được cải biến thành một tàu frigate nhanh chống tàu ngầm Kiểu 16 vào năm 1953, mang ký hiệu lườn mới F19. Nó bị tháo dỡ tại Troon vào tháng 5 năm 1966.