Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. |
Tàu khu trục Hamanami trên đường đi, 10 tháng 10 năm 1943
| |
Lịch sử | |
---|---|
Nhật Bản | |
Xưởng đóng tàu | Xưởng hải quân Maizuru |
Đặt lườn | 28 tháng 4 năm 1942 |
Hạ thủy | 18 tháng 4 năm 1943 |
Nhập biên chế | 15 tháng 10 năm 1943 |
Xóa đăng bạ | 10 tháng 1 năm 1945 |
Số phận | Bị máy bay Hải quân Mỹ đánh chìm tại vịnh Ormoc, 11 tháng 11 năm 1944 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Lớp tàu khu trục Yūgumo |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài |
|
Sườn ngang | 10,8 m (35 ft 5 in) |
Mớn nước | 3,76 m (12 ft 4 in) |
Động cơ đẩy | |
Tốc độ | 35,5 hải lý trên giờ (65,7 km/h; 40,9 mph) |
Tầm xa | 5.000 nmi (9.260 km; 5.750 mi) ở tốc độ 18 hải lý trên giờ (33 km/h; 21 mph) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 228 |
Vũ khí |
|
Hamanami (tiếng Nhật: 濱波) là một tàu khu trục thuộc lớp Yūgumo của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.
Hamanami được đặt lườn tại Xưởng hải quân Maizuru vào ngày 28 tháng 4 năm 1942, được hạ thủy vào ngày 18 tháng 4 năm 1943 và được đưa ra hoạt động vào ngày 15 tháng 10 năm 1943.
Ngày 11 tháng 11 năm 1944, Hamanami hộ tống đoàn tàu vận tải chuyển binh lính TA3 từ Manila, Philippines đến Ormoc. Hamanami bị máy bay từ tàu sân bay của Lực lượng Đặc nhiệm 38 đánh chìm trong vịnh Ormoc, về phía Tây đảo Leyte ở tọa độ 10°50′B 124°35′Đ / 10,833°B 124,583°Đ, với 63 người thiệt mạng và 42 người bị thương. Tàu khu trục chị em Asashimo đã cứu được 167 người sống sót, bao gồm Tư lệnh Đội tàu khu trục 32, Đại tá Hải quân Oshima Ichitaro và Thuyền trưởng, Trung tá Motokura.
Hamanami được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 10 tháng 1 năm 1945.