Hans Zimmer

Hans Zimmer
Thông tin nghệ sĩ
Tên khai sinhHans Florian Zimmer
Sinh12 tháng 9, 1957 (67 tuổi)
Frankfurt, Tây Đức
Thể loạiNhạc phim
Nghề nghiệpNhà soạn nhạc, Nhà sản xuất thu âm
Nhạc cụDương cầm, nhạc cụ bàn phím, synthesizer, guitar
Năm hoạt động1977–nay
Hãng đĩaRemote Control Productions, Bleeding Fingers Music
Website

Hans Zimmer (phát âm tiếng Đức: [hans ˌfloːʁi̯aːn ˈtsɪmɐ]; sinh ngày 12 tháng 9 năm 1957) là một nam nhạc sĩ, nhà soạn nhạc kiêm nhà sản xuất âm nhạc người Đức gốc Do Thái. Cho đến nay, ông đã sáng tác nhạc cho hơn 150 tác phẩm điện ảnh, bao gồm phần nhạc phim cho Vua sư tử, bộ ba của loạt phim Cướp biển vùng Caribe, The Thin Red Line, Võ sĩ giác đấu, Võ sĩ đạo cuối cùng, Kỵ sĩ bóng đêm, Kỵ sĩ bóng đêm trỗi dậy, Kẻ đánh cắp giấc mơ, Hố đen tử thần và gần đây hơn là Dune: Hành tinh cát. Hai tác phẩm Vua sư tửDune: Hành tinh cát đã giúp ông hai lần giành giải Oscar cho nhạc phim hay nhất.

Ông khởi đầu sự nghiệp tại Vương quốc Anh trước khi chuyển đến Hoa Kỳ. Ông là người đứng đầu bộ phận âm nhạc điện ảnh tại studio của DreamWorks và làm việc với các nhà soạn nhạc khác thông qua công ty mà ông sáng lập, Remote Control Productions.[1]

Các tác phẩm của Zimmer nổi bật với việc kết hợp âm nhạc điện tử hòa trộn với âm nhạc cổ điển. Ông đã nhận được bốn giải Grammy, ba giải thưởng Classic BRIT Awards, hai giải Quả cầu vàng và hai giải Oscar. Ông cũng đã có tên trong danh sách Top 100 Thiên tài đương đại, do tờ The Daily Telegraph công bố.[2]

Niên thiếu

[sửa | sửa mã nguồn]

Zimmer sinh ra tại Frankfurt am Main, Đức. Thời thơ ấu, ông sống tại Königstein-Falkenstein, nơi ông học chơi piano tại nhà, nhưng chỉ học piano một thời gian ngắn do không thích sự khuôn phép của những bài học chính thống.[3] Ông chuyển đến London vào tuổi thiếu niên và theo học trường Hurtwood House.[4]

Trong một buổi phỏng vấn với Mashable vào tháng 2 năm 2013, ông nói về cha mẹ của mình "Mẹ của tôi rất yêu thích âm nhạc, và về cơ bản là một nhạc công, và cha tôi là một kỹ sư và nhà sáng chế. Nên, tôi bắt đầu tùy chỉnh piano của mình, ta có thể nói như vậy, thứ âm thanh làm mẹ tôi thở hổn hển một cách kinh dị, và cha tôi sẽ nghĩ rằng thật tuyệt khi tôi kèm thêm cưa và những thứ tương tự vào nhạc piano, vì ông nghĩ đó sẽ là một bước tiến trong công nghệ."[5]

Trong một buổi phỏng vấn với đài truyền hình Đức ZDF năm 2006, ông nhận xét: "Cha tôi mất khi tôi còn là một đứa trẻ, và tôi đã trốn thoát bằng cách nào đó qua âm nhạc, và âm nhạc đã trở thành người bạn tốt nhất của tôi."[6]

Trong một buổi phỏng vấn tháng 5 năm 2014, Zimmer nói rằng ông là người Do Thái, và tưởng nhớ lại cách mẹ ông trốn thoát sang Anh năm 1939.[7]

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Khởi đầu

[sửa | sửa mã nguồn]

Zimmer bắt đầu sự nghiệp với vị trí chơi keyboard và synthesizer trong thập niên 1970, ở ban nhạc Krakatoa.[8] Ông từng làm việc với The Buggles, một ban nhạc new wave thành lập năm 1977 ở London với Trevor Horn, Geoff Downes, và Bruce Woolley. Zimmer có thể được nhìn thấy trong một khoảng thời gian ngắn ở video âm nhạc của ca khúc năm 1979 của The Buggles, "Video Killed the Radio Star".[9] Sau khi hợp tác với The Buggles, ông bắt đầu làm việc cùng nhóm nhạc người Ý Krisma, một ban nhạc new wave thành lập năm 1976 với Maurizio Arcieri và Christina Moser. Ông là thành viên khách mời ở vị trí synthesizer cho album thứ ba của Krisma, Cathode Mamma. Ông cũng hợp tác với ban nhạc Helden (với Warren Cann từ Ultravox).[10] Cả Zimmer (ở vị trí keyboard) và Cann (ở vị trí trống) đều được mời tham gia nhóm nhạc Tây Ban Nha Mecano cho một buổi biểu diễn ở Segovia (Tây Ban Nha) năm 1984. Hai bài hát trong buổi biểu diễn này được tập hợp trong album "Mecano: En Concierto" ra mắt năm 1985 chỉ tại Tây Ban Nha. Năm 1980, Zimmer đồng sản xuất đĩa đơn "History of the World, Part 1" với và cho ban nhạc punk Anh quốc The Damned, đĩa đơn cũng xuất hiện trong LP phát hành năm 1980, "The Black Album" và phần mô tả về ảnh hưởng của ông được ghi là "Được sản xuất một cách công phu bởi Hans Zimmer" ("Over-Produced by Hans Zimmer").

Trong khoảng thời gian sống tại London, Zimmer đã viết những đoạn nhạc quảng cáo cho Air-Edel Associates.[10] Trong thập niên 1980, Zimmer hợp tác với Stanley Myers, một nhà soạn nhạc có gia tài sáng tác đồ sộ, là tác giả của rất nhiều nhạc phẩm cho hơn sáu mươi phim. Zimmer và Myers đồng sáng lập Lillie Yard, một phòng thu đặt tại London. Myers và Zimmer đã cùng nhau thực hiện việc hoà trộn âm nhạc giao hưởng truyền thống với các nhạc cụ điện tử.[11] Một vài bộ phim mà Zimmer và Myers từng sáng tác nhạc phim là Moonlighting (1982), Success is the Best Revenge (1984), Insignificance (1985), và My Beautiful Launderette (1985). Tác phẩm đầu tiên mà Zimmer sáng tác một cách độc lập là Terminal Exposure của đạo diễn Nico Mastorakis năm 1987, trong phần nhạc phim này ông cũng viết phần lời cho các ca khúc. Zimmer đóng vai trò nhà sản xuất nhạc phim cho bộ phim năm 1987 Hoàng đế cuối cùng, bộ phim đã đoạt Giải Oscar cho nhạc phim hay nhất.[10]

Đời tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Zimmer sống tại Los Angeles với người vợ Suzanne, và có bốn đứa con.[12][13]

Giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]
Ngôi sao của Zimmer trên "Boulevard der Stars" ở Berlin

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Hans Zimmer”. Filmtracks.com. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2009.
  2. ^ “Top 100 living geniuses”. The Daily Telegraph. London. ngày 30 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2011.
  3. ^ “MTV biography – Hans Zimmer (in German)”. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2011.
  4. ^ “Hurtwood House Performing Arts – Hans Zimmer”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2010.
  5. ^ “Hans Zimmer: The Computer Is My Instrument”. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2013.
  6. ^ “ZDF Infokanal interview, June 2006 (in German with English subtitles)”. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2009.
  7. ^ “Hans Zimmer: Proud to say 'My people'. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2014.
  8. ^ Krakatoa ở Myspace Music. Zimmer đứng thứ hai từ phải qua. Truy cập ngày 2012-09-18.
  9. ^ “DebiDoss”. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2009.
  10. ^ a b c “Hans Zimmer biography”. Starpulse.com. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2009.
  11. ^ “Biography”. Hans Zimmer. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2009.
  12. ^ “Hans and Suzanne Zimmer”. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2009.
  13. ^ “Hans Zimmer – Academy Award Winner”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2009.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Nhân vật Suzune Horikita - Classroom of the Elite
Nhân vật Suzune Horikita - Classroom of the Elite
Nếu mình không thể làm gì, thì cứ đà này mình sẽ kéo cả lớp D liên lụy mất... Những kẻ mà mình xem là không cùng đẳng cấp và vô giá trị... Đến khi có chuyện thì mình không chỉ vô dụng mà lại còn dùng bạo lực ra giải quyết. Thật là ngớ ngẩn...
Review Visual Novel Summer Pockets Trial
Review Visual Novel Summer Pockets Trial
Summer Pocket là sản phẩm mới nhất của hãng Visual Novel danh giá Key - được biết đến qua những tuyệt tác Clannad, Little Buster, Rewrite
Tổng hợp các thông tin về Thủy Quốc - Fontaine
Tổng hợp các thông tin về Thủy Quốc - Fontaine
Dưới đây là tổng hợp các thông tin chúng ta đã biết về Fontaine - Thủy Quốc qua các sự kiện, nhiệm vụ và lời kể của các nhân vật trong game.
Phân biệt Ma Vương và Quỷ Vương trong Tensura
Phân biệt Ma Vương và Quỷ Vương trong Tensura
Như các bạn đã biết thì trong Tensura có thể chia ra làm hai thế lực chính, đó là Nhân Loại và Ma Vật (Ma Tộc)