Hardcore punk

Hardcore punk (thường gọi ngắn là hardcore) là một thể loại punk rocktiểu văn hóa bắt đầu vào cuối thập kỷ 1970. Hardcore punk thường nhanh hơn, mạnh mẽ hơn, và thô ráp hơn punk rock thông thường.[9] Nguồn gốc của hardcore là ở San FranciscoMiền nam California.[7] Tại San Francisco, đó là sự chống lại giới hippie chiếm ưu thế đương thời và được ảnh hưởng bởi punk rock New York và giới protopunk thời kỳ đầu. Punk rock New York có khía cạnh mạnh mẽ hơn so với San Francisco. Hardcore punk thường chống thương mại hóa, công nghiệp âm nhạc và "bất cứ thứ gì có nét tương tự rock đại chúng",[10] chủ đề của thể loại nhạc này thường về xã hội và chính trị.

Hardcore đâm chồi nãy lộc trong giới nhạc ngầm trên toàn nước Mỹ vào đầu thập niên 1980, đặc biệt ở Washington, D.C., New York, New Jersey, và Boston — cũng như ở Úc, CanadaVương quốc Anh. Hardcore sản sinh ra làn sóng straight edge và các tiểu làn sóng liên quan, hardlineyouth crew. Hardcore gắn với các hãng đĩa độc lập vào thập kỷ 1980, với tinh thần do it yourself (tự làm lấy) trong giới nhạc ngầm. Nó ảnh hưởng lên nhiều thể loại, như alternative rock, grunge, alternative metal, metalcore, thrash metal, post-hardcoreemo.

Dù hardcore "truyền thống" chưa bao giờ có thành công thương mại, vài nghệ sĩ được đánh giá cao và công nhận qua thời gian. Damaged của Black Flag, Double Nickels on the Dime của MinutemenNew Day Rising của Hüsker Dü đều nằm trong danh sách 500 album vĩ đại nhất của Rolling Stone năm 2003 và một trong những album của Dead Kennedys được chứng nhận vàng sau hơn 25 năm.[11] Năm 2011, David Fricke của Rolling Stone xếp Greg Ginn của Black Flag ở vị trí số 99 trên danh sách "100 tay guitar vĩ đại nhất mọi thời". Dù hardcore bắt đầu ở các nước Bắc Mỹ; Ý, Brazil, Nhật Bản, châu ÂuTrung Đông cũng có các ban nhạc đánh chú ý.

Đặc điểm

[sửa | sửa mã nguồn]

Đặc điểm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Giống punk rock và rock nói chung, hầu hết ban nhạc hardcore punk có đội hình hát chính/guitar/bass/trống. Nhà phê bình Steven Blush viết "The Sex Pistols vẫn là rock'n'roll...giống phiên bản điên rồ nhất nhất Chuck Berry. Hardcore từ gốc rễ rời bỏ điều đó. Nó không phải rock verse-chorus. Nó chống lại bất cứ quan niệm nào về viết nhạc. Nó là dạng của chính nó."[12] Theo AllMusic, kế hoạch chung của hardcore là chơi nhạc ồn hơn, mạnh hơn và nhanh hơn.[13] Ca sĩ hardcore thường hét,[13] gào hay xướng ca cùng nhạc.[14] Các bài hát có thể gồm cả hát nền từ các thành viên khác.

Guitar trong hardcore có thể phức tạp, có kỹ thuật linh hoạt và thường biến đổi.[15] Giai điệu guitar dùng cùng âm giai thứ tự nhiên giống với hát chính (tuy vài đoạn solo dùng ngũ cung).[15] Vài nghệ sĩ guitar hardcore punk chơi solo, cũng như dùng nhiều loại hồi âm (feedback) và hòa âm. Tiếng guitar hầu như luôn bị biến âm và khuếch đại, tạo nên âm thanh kiểu "buzzsaw".[16] Tay bass dùng nhiều nhịp (rhythm) cho bassline (dòng bass), từ nốt giữ dài hơn (nốt tròn và nốt trắng) tới nốt đen, tới những dòng nốt móc đơn và nốt móc kép nhanh. Vài tay bass nhấn mạnh kỹ thuật khi chơi. Tay trống thường chơi D beat nhanh trong một khoảnh khắc rồi để rơi nhịp độ xuống thành breakdown.

Tiểu thể loại Hardcore punk

[sửa | sửa mã nguồn]

Hardcore punk sinh ra một số tiểu thể loại, thể loại hỗn hợp phong cách và biến thể. Các tiểu thể loại của nó là D-beat, emo,[17] melodic hardcorethrashcore. Các tiểu thể loại hỗn hợp phong cách là crossover thrash,[17] crust punk,[17] grindcore,[17]metalcore,[17] tất cả kết hợp hardcore punk với extreme metal. Biến thể gồm post-hardcoreskate punk, hardcore punk cũng ảnh hưởng lên nhiều tiểu thể loại heavy metal.

Emo và post-hardcore

[sửa | sửa mã nguồn]

Thrashcore

[sửa | sửa mã nguồn]

Thường bị nhầm lẫn với crossover thrash và đôi khi thrash metal, là thrashcore.[18] Thrashcore (cũng được gọi là fastcore[19]) là một tiểu thể loại hardcore punk nổi lên vào thập niên 1980.[20] Nó về cơ bản là phiên bản tốc độ hơn của hardcore punk và các ban nhạc thường dùng blast beat.[19]

  • Hurchalla, George (2005). Going Underground: American Punk 1979–1992. Zuo Press.
  • Manley, Frank (1993). Smash the State: A Discography of Canadian Punk, 1977–92. No Exit. ISBN 0-9696631-0-2.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Ellis, Iain (2008). Rebels Wit Attitude: Subversive Rock Humorists. Counterpoint Press. tr. 172. ISBN 9781593762063.
  2. ^ Thompson, Stacy (1 tháng 2 năm 2012). Punk Productions: Unfinished Business. SUNY Press. tr. 71. ISBN 9780791484609.
  3. ^ James F. Short, Lorine A. Hughes (1 tháng 1 năm 2006). Studying Youth Gangs. Rowman Altamira. tr. 149. ISBN 9780759109391.
  4. ^ Moore, Ryan (1 tháng 12 năm 2009). Sells like Teen Spirit: Music, Youth Culture, and Social Crisis. NYU Press. tr. 50. ISBN 9780814796030.
  5. ^ Waksman, Steve (5 tháng 1 năm 2009). This Ain't the Summer of Love: Conflict and Crossover in Heavy Metal and Punk. University of California Press. tr. 210. ISBN 9780520943889.
  6. ^ a b c Chapman, Roger (2010). Culture Wars. M.E. Sharpe. tr. 449. ISBN 9780765622501.
  7. ^ a b Leblanc, Lauraine (1999). Pretty in Punk: Girls' Gender Resistance in a Boys' Subculture. Rutgers University Press. tr. 49. ISBN 9780813526515.
  8. ^ “Mastodon, Against Me! Stop, Smell Roses”. Spin. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2011.
  9. ^ Blush, Stephen (ngày 9 tháng 11 năm 2001). American Hardcore: A Tribal History. Feral House. ISBN 0-922915-71-7.
  10. ^ Milagros Peña, Curry Malott (2004). Punk Rockers' Revolution: A Pedagogy of Race, Class, and Gender. Peter Lang. tr. 56. ISBN 9780820461427.
  11. ^ “Recording Industry Association of America”. RIAA. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2011.
  12. ^ Blush, Steven (tháng 1 năm 2007). “Move Over My Chemical Romance: The Dynamic Beginnings of US Punk”. Uncut.
  13. ^ a b Pop/Rock » Punk/New Wave » Hardcore Punk. “Hardcore Punk | Significant Albums, Artists and Songs”. AllMusic. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2014.
  14. ^ Kortepeterp, Derek, The Rage and the Impact: An Analysis of American Hardcore Punk, p. 12
  15. ^ a b Kortepeter, Derek. “Kortepeterp, Derek, ''The Rage and the Impact: An Analysis of American Hardcore Punk''”. Academia.edu. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2014.
  16. ^ Steven Blush. American Hardcore: A Tribal Tradition. Feral House, 2001. p. 151
  17. ^ a b c d e Kuhn, Gabriel (1 tháng 2 năm 2010). Sober Living for the Revolution. PM Press. tr. 16. ISBN 9781604863437.
  18. ^ “Powerviolence: The Dysfunctional Family of Bllleeeeaaauuurrrgghhh!!”. Terrorizer (172): 36–37. tháng 7 năm 2008.
  19. ^ a b “Interview with Max Ward”. Maximum Rock'n'Roll. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2008.
  20. ^ Felix von Havoc. Maximumrocknroll. Issue 219
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
[Hải Phòng] Cùng thư giãn tại Time Coffee Núi Đèo
[Hải Phòng] Cùng thư giãn tại Time Coffee Núi Đèo
Không gian tại quán là một lựa chọn lí tưởng với những người có tâm hồn nhẹ nhàng yên bình
Gu âm nhạc của chúng ta được định hình từ khi nào?
Gu âm nhạc của chúng ta được định hình từ khi nào?
Bạn càng tập trung vào cảm giác của mình khi nghe một bài hát thì mối liên hệ cảm xúc giữa bạn với âm nhạc càng mạnh mẽ.
Game đối kháng Jujutsu Kaisen: Cursed Clash
Game đối kháng Jujutsu Kaisen: Cursed Clash
Bandai Namco đã ấn định ngày phát hành chính thức của tựa game đối kháng Jujutsu Kaisen: Cursed Clash
Giới thiệu anime 3-gatsu no Lion
Giới thiệu anime 3-gatsu no Lion
3-gatsu no Lion(3月のライオン, Sangatsu no Raion, Sư tử tháng Ba) là series anime được chuyển thể từ manga dài kì cùng tên của nữ tác giả Umino Chika.