Mathcore

Mathcore là phong cách có nhịp điệu phức tạp và khó nghe của metalcore. Nó có nguồn gốc từ các ban nhạc như Converge,[1] Coalesce, Botch,[2][3]The Dillinger Escape Plan.[4] Thuật ngữ mathcore có thể gợi lên cảm tưởng về sự giống nhau với math rock. Cả math rock và mathcore đều dùng time signature (nhịp) bất thường. Các nhóm math rock như Slint, Don Caballero, Shellac, và Drive Like Jehu có vài ảnh hưởng lên mathcore, dù mathcore gần hơn với metalcore. Các nhóm mathcore nổi bật thường được cho là có liên quan tới grindcore.[5][6][7][8][9]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]
The Dillinger Escape Plan năm 2005.

Vào thập kỷ 1990, các ban nhạc hiện nay được mô tả là mathcore được nhóm lại với tên "noisecore". Kevin Stewart-Panko của tạp chí Terrorizer gọi các nhóm Neurosis, Deadguy, Cave In, Today Is the Day, The Dillinger Escape Plan, Converge, Coalesce, Candiria, Botch, và Psyopus là noisecore.[10] Stewart-Panko mô tả các ban nhạc này là "mạnh mẽ, bạo lực, nghịch tai, kỹ thuật, tàn bạo, vô trật tự, một sự kết hợp vô luật lệ của hardcore, metal, prog, math rock, grindjazz.

Thuật ngữ "mathcore" là một từ hết hợp: math rock với hardcore. Các nghệ sĩ đầu tiên có sự kết hợp này là Rorschach, Starkweather, Botch, và Converge. Suốt thập kỷ 1990, nhiều nhóm nhạc nổi lên: Cave In từ Massachusetts, Cable từ Connecticut, Coalesce từ thành phố Kansas, và Knut từ Thụy Sĩ. Thật ngữ mathcore được đặt ra khi The Dillinger Escape Plan phát hành album phòng thu đầu tay Calculating Infinity (1999). The Dillinger Escape Plan thường được xem là nghệ sĩ "tiên phong" của mathcore.[11] Tiền "mathcore", phong cách này được gán cho "noisecore",[8][12] mặc dù thể loại này đã tồn tại trước đó.

Đầu thập kỷ 2000, những cách nhạc mathcore khác xuất hiện. Các nhạc phẩm thời kỳ đầu của Norma Jean được so sánh với Converge và Botch.[13][14][15] Các ban nhạc mathcore ảnh hưởng bởi các ban nhạc tiên phong là Car Bomb,[16] The Locust,[17] Daughters,[18] Some Girls,[19] Look What I Did,[20]The Number Twelve Looks Like You,.[21]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Converge biography”. Rockdetector.com. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2007.
  2. ^ “Botch - We Are The Romans Review”. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2015.
  3. ^ “San Francisco Bay Guardian: Article: The Gap's attack on kids”. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2015.
  4. ^ “TV3 > News > Story > Mathcore band the 'Dillinger Escape Plan' visit NZ”. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2015.
  5. ^ "Contemporary grindcore bands such as The Dillinger Escape Plan [...] have developed avant-garde versions of the genre incorporating frequent time signature changes and complex sounds that at times recall free jazz." Keith Kahn-Harris (2007) Extreme Metal, Berg Publishers, ISBN 1-84520-399-2, p. 4.
  6. ^ Epitaph Records, Dillinger Escape Plan artist info, [1] Access date: ngày 16 tháng 9 năm 2008.
  7. ^ Vik Bansal, Miss Machine review, Music OMH, ngày 2 tháng 8 năm 2004. [2] Lưu trữ 2008-09-26 tại Wayback Machine Access date: ngày 16 tháng 9 năm 2008.
  8. ^ a b Whitney Strub, "Behind the Key Club: An Interview with Mark "Barney" Greenway of Napalm Death ", PopMatters, ngày 11 tháng 5 năm 2006. [3] Lưu trữ 2009-12-16 tại Wayback Machine Access date: ngày 17 tháng 9 năm 2008.
  9. ^ Jason Buchanan, The Dillinger Escape Plan: Miss Machine - The DVD Lưu trữ 2006-04-26 tại Wayback Machine review, Allmovie. Access date: ngày 17 tháng 9 năm 2008.
  10. ^ Kevin Stewart-Panko, "The Decade in Noisecore", Terrorizer no. 75, Feb 2000, p. 22-23.
  11. ^ "Mathcore band the 'Dillinger Escape Plan' visit NZ" Lưu trữ 2011-10-04 tại Wayback Machine 3news.co.nz. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2008.
  12. ^ "Botch... a noisecore pioneer", 'Terrorizer, "Grindcore Special", #180, Feb. 2009, p. 63.
  13. ^ Bosler, Shawn. Christian metalcore heavyweights Norma Jean make new believers with O’ God, the Aftermath." Lưu trữ 2012-02-17 tại Wayback Machine Decibel Magazine. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2008.
  14. ^ Bansal, Vik. "Norma Jean - O God The Aftermath (Abacus)" Lưu trữ 2008-10-06 tại Wayback Machine musicOMH.com. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2008.
  15. ^ Heisel, Scott. "Listening Station" Alternative Press. Issue 242 Page 168.
  16. ^ Angle, Brad. Centralia review. Guitar World. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2009. [liên kết hỏng]
  17. ^ Ken McGrath. "Destruction and Chaos are Never Far Behind". Interview with Bobby Bray. Sorted Magazine. 2003. [4] Access date: ngày 4 tháng 10 năm 2008.
  18. ^ Steve Carlson, Hell Songs review, "Blog Critics", ngày 19 tháng 10 năm 2006. [5] Lưu trữ 2008-12-16 tại Wayback Machine Access date: ngày 13 tháng 9 năm 2008.
  19. ^ "San Diego Reader"[6] Access date: ngày 13 tháng 9 năm 2008.
  20. ^ Harris, Chris. "Look What I Did Name Upcoming LP 'Atlas Drugged'"Noisecreep
  21. ^ Miller, Kirk. "The Number Twelve Looks Like You: Put on Your Rosy Red Glasses - You know, the kind Bootsy Collins wears..." Lưu trữ 2012-02-17 tại Wayback Machine Decibel Magazine. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2008.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Review cuốn sách I, Robot: The Illustrated Screenplay của Harlan Ellison
Review cuốn sách I, Robot: The Illustrated Screenplay của Harlan Ellison
I, Robot: The Illustrated Screenplay vốn ban đầu là một kịch bản do Harlan Ellison viết hồi cuối thập niên 70
Thủ lĩnh Ubuyashiki Kagaya trong Kimetsu no Yaiba
Thủ lĩnh Ubuyashiki Kagaya trong Kimetsu no Yaiba
Kagaya Ubuyashiki (産屋敷 耀哉 Ubuyashiki Kagaya) Là thủ lĩnh của Sát Quỷ Đội thường được các Trụ Cột gọi bằng tên "Oyakata-sama"
Bài học từ chiếc túi hàng hiệu
Bài học từ chiếc túi hàng hiệu
Mình sở hữu chiếc túi designer bag đầu tiên cách đây vài năm, lúc mình mới đi du học. Để mà nói thì túi hàng hiệu là một trong những ''life goals" của mình đặt ra khi còn bé
Hướng dẫn rút nước hồ và mở khóa thành tựu ẩn: Đỉnh Amakumo hùng vĩ
Hướng dẫn rút nước hồ và mở khóa thành tựu ẩn: Đỉnh Amakumo hùng vĩ
Một quest khá khó trên đảo Seirai - Genshin Impact