Danh từ định danh diphreutes bắt nguồn từ diphreutḗs (διφρευτής) trong tiếng Hy Lạp cổ đại và có nghĩa là "người đánh xe ngựa chiến", không rõ hàm ý nhưng gần như chắc chắn là đề cập đến sợi vây lưng vươn dài của loài cá này, được ví như roi da đánh ngựa của phu xe.[2]
H. diphreutes sống tập trung ở đới sườn dốc của rạn viền bờ, đặc biệt là những khu vực nước trồi ở vùng nhiệt đới.[1] Độ sâu lớn nhất mà H. diphreutes được tìm thấy tính đến thời điểm hiện tại là 210 m, được ghi nhận tại rạn san hô Great Barrier.[9]
H. diphreutes có chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận là 21 cm.[10] Gai vây lưng trước của H. diphreutes vươn dài hơn chiều dài cơ thể và có màu trắng. Thân màu trắng với hai dải sọc đen: dải thứ nhất từ lưng kéo dài xuống toàn bộ vây bụng, dải thứ hai từ giữa vây lưng băng chéo xuống nửa sau của vây hậu môn. Phần vây mềm của vây lưng và toàn bộ vây đuôi màu vàng. Phía trên mắt có một vệt đen.[11]
H. diphreutes thường bị nhầm lẫn với Heniochus acuminatus do kiểu hình của hai loài rất giống nhau. Nếu quan sát kỹ, có thể thấy:[12]
Đường biên giữa hai vùng màu đen/trắng của H. diphreutes nằm ngay vị trí chóp vây, còn đường biên này ở H. acuminatus nằm cao hơn một chút so với vị trí chóp vây.
Chóp vây hậu môn của H. diphreutes tạo thành một góc vuông, còn chóp vây này của H. acuminatus bo tròn hơn.
Phần ngực của H. diphreutes căng tròn, còn ngực của H. acuminatus phẳng hơn.
Mõm của H. diphreutes ngắn hơn so với H. acuminatus.[13]
H. diphreutes có nhiều hơn H. acuminatus một tia gai vây lưng.[11]
Số gai ở vây lưng: 12 (rất hiếm khi là 13); Số tia vây ở vây lưng: 23–25; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 17–19; Số tia vây ở vây ngực: 16–18; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 46–54.[11]
Không chỉ khác nhau về kiểu hình, cả hai loài H. diphreutes và H. acuminatus cũng có sự khác biệt trong hành vi. H. diphreutes có xu hướng hợp thành đàn và bơi cách xa đáy biển, còn H. acuminatus sống đơn độc hoặc theo cặp và thường bơi gần đáy biển.[13]
Thức ăn của H. diphreutes chủ yếu là động vật phù du. Cá con, và cả cá trưởng thành, có thể giữ vai trò là cá dọn vệ sinh khi chúng ăn các loài giáp xác ký sinh bám trên những loài cá khác.[10]
^R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). “Heniochus diphreutes”. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2022.
^Sih, Tiffany L.; Cappo, Mike; Kingsford, Michael (2017). “Deep-reef fish assemblages of the Great Barrier Reef shelf-break (Australia)”. Scientific Reports. 7 (1): 10886. doi:10.1038/s41598-017-11452-1. ISSN2045-2322.