Heniochus acuminatus

Heniochus acuminatus
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Acanthuriformes
Họ (familia)Chaetodontidae
Chi (genus)Heniochus
Loài (species)H. acuminatus
Danh pháp hai phần
Heniochus acuminatus
(Linnaeus, 1758)
Danh pháp đồng nghĩa
Danh sách
    • Chaetodon acuminatus Linnaeus, 1758
    • Chaetodon macrolepidotus Linnaeus, 1758
    • Chaetodon bifasciatus Shaw, 1803
    • Chaetodon mycteryzans Gronow, 1854

Cá chim cờ (Danh pháp khoa học: Heniochus acuminatus) là một loài cá biển thuộc chi Heniochus trong Họ Cá bướm. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1758.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Tính từ định danh acuminatus trong tiếng Latinh có nghĩa là "sắc nhọn", không rõ hàm ý, có lẽ đề cập đến gai vây lưng thứ tư vươn lên rất dài của loài cá này.[2]

Phạm vi phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

H. acuminatus xuất hiện rộng rãi ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Từ vịnh Ba Tư dọc theo bờ biển Đông Phi, H. acuminatus được phân bố trải dài về phía đông đến hầu hết các đảo quốc thuộc châu Đại Dương (giới hạn đến quần đảo Société, không được tìm thấy tại quần đảo Hawaiiquần đảo Marquises), ngược lên phía bắc đến vùng biển phía nam Biển Nhật Bản, xa về phía nam đến bang New South Wales (Úc) và đảo Lord Howe.[1][3]

Việt Nam, H. acuminatus được ghi nhận tại cù lao Chàm (Quảng Nam);[4] bờ biển Ninh Thuận;[5] cù lao Câu (Bình Thuận); vịnh Xuân Đài (Phú Yên);[6] vịnh Vân Phong[7]vịnh Nha Trang (Khánh Hòa);[8] Côn Đảo;[9] đảo Phú Quốcquần đảo An Thới (Kiên Giang);[10] cùng quần đảo Hoàng Sa[11]quần đảo Trường Sa.[12]

H. acuminatus sống tập trung ở đới sườn dốc của rạn viền bờrạn san hô trong đầm phá sâu, cũng có thể bắt gặp loài này ở vùng biển nông.[1] Độ sâu lớn nhất mà H. acuminatus được tìm thấy là 178 m, được ghi nhận ở Nouvelle-Calédonie.[13]

H. acuminatus đã 3 lần được ghi nhận ở ngoài khơi bờ biển đông nam Brasil.[14] Hai giả thuyết giải thích cho sự xuất hiện của H. acuminatus tại khu vực này: được thả ra từ bể cá hoặc theo hải lưu phân tán đường dài từ Ấn Độ Dương vào Đại Tây Dương, băng qua Nam Phi.[15] Tương tự, H. acuminatus vài lần được nhìn thấy ở bờ biển phía đông nam bang Florida, nhiều khả năng cũng là cá cảnh được thả ra biển.[16]

H. acuminatus đang lớn

H. acuminatus có chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận là 25 cm.[17] Gai vây lưng thứ tư của H. acuminatus vươn dài (thường dài hơn chiều dài cơ thể) và có màu trắng. Thân màu trắng với hai dải sọc đen: dải thứ nhất từ lưng kéo dài xuống toàn bộ vây bụng, dải thứ hai từ giữa vây lưng băng chéo xuống nửa sau của vây hậu môn. Phần vây mềm của vây lưng và toàn bộ vây đuôi màu vàng. Phía trên mắt có một vệt đen.[18]

H. acuminatus thường bị nhầm lẫn với Heniochus diphreutes do kiểu hình của hai loài rất giống nhau. Nếu quan sát kỹ, có thể thấy:[19]

  • Đường biên giữa hai vùng màu đen/trắng của H. acuminatus nằm cao hơn một chút so với vị trí chóp vây, còn đường biên này ở H. diphreutes nằm ngay vị trí chóp vây.
  • Chóp vây hậu môn của H. acuminatus bo tròn hơn, còn chóp vây này của H. diphreutes tạo thành một góc vuông.
  • Phần ngực của H. acuminatus phẳng, còn ngực của H. diphreutes căng tròn hơn.
  • Mõm của H. acuminatus dài hơn so với H. diphreutes.[20]
  • H. acuminatus có ít hơn H. diphreutes một tia gai vây lưng.[18]

Số gai ở vây lưng: 11 (rất hiếm khi là 12); Số tia vây ở vây lưng: 24–27; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 17–19; Số tia vây ở vây ngực: 15–18; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 47–54.[18]

Sinh thái học

[sửa | sửa mã nguồn]

Không chỉ khác nhau về kiểu hình, cả hai loài H. acuminatusH. diphreutes cũng có sự khác biệt trong hành vi. H. acuminatus sống đơn độc (cá con) hoặc theo cặp (cá trưởng thành) và bơi gần đáy biển,[17] còn H. diphreutes có xu hướng hợp thành đàn và bơi cách xa đáy biển.[19][20]

H. acuminatus là loài ăn tạp, thức ăn chủ yếu của chúng là động vật phù du và nhiều loài thủy sinh không xương sống ở đáy biển.[1] Cá con có thể ăn các loài giáp xác ký sinh trên cơ thể những loài cá khác.[17]

Thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

H. acuminatus cùng với Chelmon rostratus là hai loài cá bướm phổ biến nhất trong hoạt động thương mại cá cảnh, với khoảng 42.000 cá thể được bán ra trong giai đoạn 19882002.[1]

H. acuminatus cũng là một loài cá cảnh thường xuyên được xuất khẩu.[21] Tại Hoa Kỳ, loài cá này được bán với giá khoảng 40 đến 60 USD một con.[1]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f Rocha, L. A.; Pyle, R.; Craig, M. T.; Pratchett, M. & Carpenter, K. E. (2010). Heniochus acuminatus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T165626A6071516. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T165626A6071516.en. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Scharpf, Christopher; Lazara, Kenneth J. (2021). “Order Acanthuriformes (part 1): Families Lobotidae, Pomacanthidae, Drepaneidae and Chaetodontidae”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2022.
  3. ^ R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). Chaetodon acuminatus. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2022.
  4. ^ Nguyễn Văn Long; Mai Xuân Đạt (2020). “Đặc trưng nguồn lợi cá trong các hệ sinh thái ở khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm - Hội An” (PDF). Vietnam Journal of Marine Science and Technology. 20 (1): 105–120. doi:10.15625/1859-3097/13553. ISSN 1859-3097.
  5. ^ Mai Xuân Đạt; Nguyễn Văn Long; Phan Thị Kim Hồng (2020). “Cá rạn san hô ở vùng biển ven bờ tỉnh Ninh Thuận” (PDF). Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển. 20 (4A): 125–139. doi:10.15625/1859-3097/15656. ISSN 1859-3097.
  6. ^ Hoàng Đình Trung; Võ Văn Quý; Nguyễn Duy Thuận; Nguyễn Hữu Nhật; Nguyễn Thị Hà Giang (2020). “Đa dạng thành phần loài cá ở vịnh Xuân Đài, tỉnh Phú Yên và định hướng sử dụng bền vững” (PDF). Báo cáo khoa học về Nghiên cứu và Giảng dạy Sinh học ở Việt Nam. Vĩnh Phúc, Việt Nam: Nhà xuất bản Khoa học tự nhiên và Công nghệ: 149–157. doi:10.15625/vap.2020.00018.
  7. ^ Trần Thị Hồng Hoa, Võ Văn Quang, Nguyễn Phi Uy Vũ, Lê Thị Thu Thảo, Trần Công Thịnh (2014). “Thành phần loài cá khai thác ở vịnh Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa” (PDF). Tuyển Tập Nghiên Cứu Biển. 20: 70–88.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  8. ^ Astakhov, D. A. (2010). “Annotated list of species of the family Chaetodontidae (Actinopterygii, Perciformes) from Nha Trang Bay (South China Sea, Central Vietnam)” (PDF). Journal of Ichthyology. 50 (10): 914–931. doi:10.1134/S0032945210100024. ISSN 1555-6425.
  9. ^ Trần Ngọc Cường biên tập (2013). “Thông Tin Về Đất Ngập Nước Ramsar (RIS) – Côn Đảo” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2022. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  10. ^ Nguyễn Hữu Phụng; Nguyễn Văn Long (1996). “Một số kết quả nghiên cứu cá rạn san hô ở An Thới (Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang)” (PDF). Tuyển tập nghiên cứu biển. 7: 84–93.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  11. ^ Astakhov, D. A.; Savinkin, O. V.; Ponomarev, S. A.; Phuong, Lai Duy; Thu, Dao Duy (2016). “Preliminary annotated list of species of the family Chaetodontidae (Actinopterygii) from Ly Son Islands (South China Sea, Central Vietnam)” (PDF). Journal of Ichthyology. 56 (1): 154–158. doi:10.1134/S003294521601001X. ISSN 1555-6425.
  12. ^ Nguyễn Hữu Phụng (2002). “Thành phần cá rạn san hô biển Việt Nam” (PDF). Tuyển tập Báo cáo Khoa học Hội nghị Khoa học "Biển Đông-2002": 275–308.
  13. ^ Ronald Fricke, Michel Kulbicki & Laurent Wantiez (2011). “Checklist of the fishes of New Caledonia, and their distribution in the Southwest Pacific Ocean (Pisces)” (PDF). Stuttgarter Beiträge zur Naturkunde A. 4: 406.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  14. ^ Adelir-Alves, Johnatas; Soeth, Marcelo; Braga, Raul Rennó; Spach, Henry Louis (2018). “Non-native reef fishes in the Southwest Atlantic Ocean: a recent record of Heniochus acuminatus (Linnaeus, 1758) (Perciformes, Chaetodontidae) and biological aspects of Chromis limbata (Valenciennes, 1833) (Perciformes, Pomacentridae)” (PDF). Check List. 14 (2): 379–385. doi:10.15560/14.2.379. ISSN 1809-127X.
  15. ^ Luiz, Osmar J; Comin, Eric J; Madin, Joshua S (2014). “Far away from home: the occurrence of the Indo-Pacific bannerfish Heniochus acuminatus (Pisces: Chaetodontidae) in the Atlantic” (PDF). Bulletin of Marine Science. 90 (2): 741–744. doi:10.5343/bms.2013.1046.
  16. ^ M. E. Brown; P. J. Schofield (2022). Heniochus acuminatus. Nonindigenous Aquatic Species Database. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2022.
  17. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Heniochus acuminatus trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
  18. ^ a b c John E. Randall; Gerald R. Allen; Roger C. Steene (1998). The Fishes of the Great Barrier Reef and Coral Sea. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 233. ISBN 978-0824818951.
  19. ^ a b Mark Rosenstein. “Visually Separating the Bannerfishes: Longfin versus Schooling”. Fiji Reef Fish. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2022.
  20. ^ a b John E. Randall (1995). Coastal Fishes of Oman. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 253. ISBN 978-0824818081.
  21. ^ R. Pyle (2001). “Chaetodontidae”. Trong K. E. Carpenter; V. H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Volume 5. Bony Fishes Part 3 (Menidae to Pomacentridae) (PDF). FAO Species Identification Guide for Fishery Purposes. FAO. tr. 3262. ISBN 978-9251045879.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan