I-24 (tàu ngầm Nhật) (1939)

Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm số 48
Xưởng đóng tàu Xưởng vũ khí Hải quân Sasebo, Sasebo
Đặt lườn 5 tháng 12, 1938
Đổi tên I-24, 30 tháng 9, 1939
Hạ thủy 12 tháng 11, 1939
Hoàn thành 31 tháng 10, 1941
Nhập biên chế 31 tháng 10, 1941
Số phận Bị tàu tuần tra Hoa Kỳ USS PC-487 đánh chìm tại quần đảo Aleut, 11 tháng 6, 1943
Xóa đăng bạ 1 tháng 8, 1943
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu tàu ngầm Type C1
Trọng tải choán nước
  • 2.554 tấn Anh (2.595 t) (nổi) [1]
  • 3.561 tấn Anh (3.618 t) (lặn) [1]
Chiều dài 109,3 m (358 ft 7 in) chung[1]
Sườn ngang 9,1 m (29 ft 10 in)[1]
Mớn nước 5,3 m (17 ft 5 in)[1]
Công suất lắp đặt
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 14.000 nmi (26.000 km) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h) (nổi) [1]
  • 60 nmi (110 km) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h) (lặn)
Độ sâu thử nghiệm 100 m (330 ft)[1]
Số tàu con và máy bay mang được 1 × tàu ngầm bỏ túi Type A (Kō-hyōteki)
Thủy thủ đoàn tối đa 101[1]
Vũ khí

I-24 là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của Hải quân Nhật mang cái tên này, sau khi chiếc I-24 thứ nhất được đổi tên thành I-124 vào năm 1938. Nhập biên chế năm 1941, nó đã phóng tàu ngầm bỏ túi tham gia Tấn công Trân Châu Cảng và cuộc tấn công cảng Sydney, hỗ trợ cho các trận chiến biển Coralquần đảo Santa Cruz, cũng như phục vụ cho các chiến dịch Guadalcanal, New Guineaquần đảo Aleut. I-24 bị tàu tuần tra Hoa Kỳ USS PC-487 đánh chìm tại quần đảo Aleut vào ngày 11 tháng 6, 1943.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]

Tàu ngầm Type C được thiết kế dựa trên phân lớp KD6 của lớp Kaidai dẫn trước, nhưng trang bị vũ khí ngư lôi mạnh hơn để tấn công tầm xa. Chúng có trọng lượng choán nước 2.595 tấn (2.554 tấn Anh) khi nổi và 3.618 tấn (3.561 tấn Anh) khi lặn, lườn tàu có chiều dài 109,3 m (358 ft 7 in), mạn tàu rộng 9,1 m (29 ft 10 in) và mớn nước sâu 5,3 m (17 ft 5 in). Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft).[3]

Tàu ngầm Type C được trang bị hai động cơ diesel công suất 6.200 mã lực phanh (4.623 kW), mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 1.000 mã lực (746 kW). Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 23,6 hải lý trên giờ (43,7 km/h; 27,2 mph) và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn dưới nước,[4] tầm xa hoạt động của Type C là 14.000 hải lý (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph), và có thể lặn xa 60 nmi (110 km; 69 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[5]

Các con tàu có tám ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 20 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in), cùng hai pháo phòng không 25 mm Type 96 nòng đơn hoặc nòng đôi. Các bộ gá trên boong tàu phía sau tháp chỉ huy cho phép nó vận chuyển và phóng một tàu ngầm bỏ túi Type A (Kō-hyōteki).[5]

Chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Được đặt hàng trong Chương trình Maru 3 năm 1937, I-24 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 48 tại Xưởng vũ khí Hải quân SaseboSasebo vào ngày 5 tháng 12, 1938.[6][7] Đang khi được chế tạo, nó được đổi tên thành I-24 vào ngày 30 tháng 9, 1938[6][7] trở thành chiếc tàu ngầm Nhật Bản thứ hai mang cái tên này, còn chiếc I-24 thứ nhất được đổi tên thành I-124 trước đó vào ngày 1 tháng 6.[8] Nó được hạ thủy vào ngày 12 tháng 11, 1939[6][7] rồi hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 31 tháng 10, 1941,[6][7] dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân Hanabusa Hiroshi.[7]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

1940 - 1941

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi nhập biên chế, I-24 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Yokosuka.[6][9] Ngay sau đó nó cùng cùng các tàu ngầm chị em I-16, I-18, I-20I-22 được cải biến thành tàu ngầm mẹ để mang tàu ngầm bỏ túi Type A (Kō-hyōteki).[9] Đến ngày 15 tháng 11, I-24 được điều về Đội tàu ngầm 3 thuộc Hải đội Tàu ngầm 1 trực thuộc Đệ Lục hạm đội.[7]

Tại Căn cứ Hải quân Kure vào ngày 17 tháng 11, I-24 được phân về Đơn vị Tấn công Đặc biệt dưới quyền Tư lệnh Đội tàu ngầm 3, Đại tá Hải quân Sasaki Hankyu, vốn bao gồm các tàu ngầm chị em I-16, I-18, I-20I-22, do I-22 đảm trách vai trò soái hạm.[7] Các hạm trưởng được thông báo chi tiết về Chiến dịch Z và vai trò của tàu ngầm mẹ mang tàu ngầm bỏ túi trong kế hoạch tấn công Trân Châu Cảng sắp diễn ra.[7][9]

Vào ngày 18 tháng 11, năm chiếc tàu ngầm di chuyển từ Kure đến Khu vực Thực hành Hải quân Kamegakubi, nơi mỗi chiếc nhận lên tàu một tàu ngầm bỏ túi Type A.[7] Đến 02 giờ 15 phút ngày 19 tháng 11, họ khởi hành từ Kamegakubi để hướng sang khu vực quần đảo Hawaii,[7] theo một lộ trình trực tiếp ngang qua phía Nam đảo san hô Midway.[7] Lúc đang trên đường đi, vào ngày 2 tháng 12, họ nhận được thông điệp từ Hạm đội Liên hợp: "Leo núi Niitaka 1208" (tiếng Nhật: Niitakayama nobore 1208), là mật lệnh cho biết chiến sự với Khối Đồng Minh sẽ bắt đầu vào ngày 8 tháng 12 (theo giờ Nhật Bản, tức ngày 7 tháng 12 tại Hawaii bên kia đường đổi ngày).[7]

Trận Trân Châu Cảng

[sửa | sửa mã nguồn]

Lúc 03 giờ 33 phút ngày 7 tháng 12, ở phía Nam Oahu I-24 tung ra chiếc tàu ngầm bỏ túi của nó, chiếc Số 19, ở vị trí cách lối ra vào Trân Châu Cảng khoảng 10,5 nmi (19,4 km) về phía Tây Nam; đây là chiếc duy nhất gặp trục trặc kỹ thuật, khi la bàn con quay hồi chuyển bị hỏng trước khi xuất phát.[7] Số 19 bị chúc mũi ngay khi vừa rời tàu ngầm "mẹ", nhưng hai thành viên tổ lái đã lấy lại sự điều khiển con tàu dù gặp nhiều khó khăn.[7] Chiếc tàu ngầm bỏ túi đến được lối ra vào cảng lúc 07 giờ 00, nhưng không thể xâm nhập vào bên trong cho đến khi cuộc không kích bắt đầu.[7] Nó trồi lên mặt nước lúc khoảng 08 giờ 00 và bị vướng vào một rạn san hô, rồi bị tàu khu trục USS Helm (DD-388) phát hiện.[7] Helm tấn công mục tiêu bằng hải pháo, nhưng không trúng đích mà lại giúp Số 19 thoát được khỏi mắc cạn, nhưng cú va chạm làm hỏng cơ cấu khai hỏa ngư lôi của chiếc tàu ngầm, và khiến sĩ quan chỉ huy của nó, Thiếu úy Hải quân Kazuo Sakamaki, bất tỉnh.[7]

Sau khi Sakamaki tỉnh lại, Số 19 bị mắc cạn một lần nữa;[7] tổ lái chuyển dịch trọng lượng các thùng dằn giúp chiếc tàu ngầm nổi trở lại, nhưng giờ đây bánh lái lại không đáp ứng.[7] Trong khi trôi nổi, chiếc tàu ngầm bỏ túi sống sót qua nhiều đợt tấn công bằng mìn sâu.[7] Tổ lái tìm cách đánh chìm tàu, nhưng Số 19 lại bị mắc cạn một lần nữa vào rạn san hô.[7] Sakamaki kích hoạt các khối chất nổ để tự phá hủy, nhưng chất nổ đã không kích nổ như dự định, rồi cả hai bỏ tàu.[7] Sakamaki bất tỉnh và bị sóng cuốn lên bờ tại bãi biển Waimanalo ở bờ biển phía Đông đảo Oahu vào ngày 8 tháng 12; Sakamaki trở thành tù binh chiến tranh Nhật Bản đầu tiên trong Thế Chiến II.[7] Đồng đội của anh bị đuối nước, nhưng chiếc tàu ngầm bỏ túi Số 19 bị chiếm giữ, và hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Quốc gia Chiến tranh Thái Bình Dương tại Fredericksburg, Texas từ năm 1991.[7]

Trong lúc đó I-24 cùng bốn tàu ngầm "mẹ" khác đi đến khu vực thu hồi các tàu ngầm bỏ túi dự định về phía Tây Lanai, nơi họ trải qua đêm 7-8 tháng 12.[7] Đến sáng sớm ngày 9 tháng 12, I-18, I-20I-24 được lệnh rời khu vực thu hồi,[7] nhưng I-16I-22 tiếp tục ở lại cho đến ngày 11 tháng 12.[9] Không có chiếc nào trong số năm tàu ngầm bỏ túi quay trở lại.[7] I-24 rời vùng biển Hawaii vào ngày 12 tháng 12, về đến Kwajalein vào ngày 22 tháng 12.[7]

Chuyến tuần tra thứ nhất

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 4 tháng 1, 1942, I-24 cùng các tàu ngầm chị em I-18I-22 khởi hành từ Kwajalein cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh để hoạt động tại vùng biển quần đảo Hawaii.[7] Họ rời khu vực tuần tra vào ngày 18 tháng 1, khi I-18 cùng I-24 được lệnh đi đến bắn phá đảo san hô Midway thuộc quần đảo Tây Bắc Hawaii.[7] Đến ngày 25 tháng 1, hai chiếc tàu trồi lên mặt nước trong bóng đêm ngoài khơi Midway, nơi I-24 khai hỏa khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in) trên boong.[7] Tuy nhiên pháo phòng thủ duyên hải của Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đã lập tức bắn trả, buộc I-24 phải lặn xuống sau khi chỉ bắn được sáu quả đạn pháo.[7] I-18 cũng lặn xuống mà chưa bắn được phát nào.[7]

Sau nỗ lực bắn phá không thành công, I-24 cùng với I-18I-22 lên đường quay trở về Nhật Bản. Họ hoàn toàn không biết rằng tàu ngầm Hoa Kỳ USS Gudgeon đã nhận được thông tin tình báo tín hiệu được bẻ khóa tiết lộ hoạt động và lịch trình của họ.[7] Gudgeon không tìm thấy các mục tiêu dự định, nhưng trong khi tìm kiếm lại phát hiện và tấn công, đánh chìm tàu ngầm I-73 vốn đang di chuyển trên cùng lộ trình, ở vị trí cách 240 nmi (280 mi) về phía Tây Midway vào ngày 27 tháng 1.[7] I-24 về đến Yokosuka cùng với I-18, I-22 và các tàu ngầm I-4, I-5, I-6I-7 vào ngày 2 tháng 2.[7]

Đang khi ở lại vùng biển Nhật Bản, I-24 cùng với mười tàu ngầm khác thuộc Hải đội Tàu ngầm 8 tiến hành tập trận trong biển nội địa Seto, kết thúc vào ngày 11 tháng 4.[7] Vào ngày 15 tháng 4, nó được điều sang Đội tàu ngầm 3 cùng với các tàu ngầm I-21I-22, và hợp cùng với Đội tàu ngầm 14, bao gồm các tàu ngầm I-27, I-28I-29, để hình thành nên Đơn vị Tiền phương phía Đông dưới sự chỉ đạo chung của Tư lệnh Đội tàu ngầm 3.[7][9]

Vào ngày 15 tháng 4, I-24 khởi hành từ Kure để hướng sang căn cứ Truk cùng với các tàu ngầm của đơn vị.[7][9] Hải đội vẫn còn đang trên đường đi lúc xảy ra vụ Không kích Doolittle vào ngày 18 tháng 4, khi 16 máy bay ném bom B-25 Mitchell của Không lực Lục quân quân Hoa Kỳ xuất phát từ tàu sân bay USS Hornet (CV-8) đã ném bom xuống các mục tiêu trên đảo Honshū.[9] Hải đội được lệnh chuyển hướng về phía Đông Bắc và đi hết tốc độ để tìm cách đánh chặn lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ vốn đã tung ra cuộc không kích. Tuy nhiên mệnh lệnh bị hủy bỏ vào ngày 19 tháng 4, và hải đội lại tiếp tục hành trình đi sang Truk, đến nơi vào ngày 24 tháng 4.[9]

Chuyến tuần tra thứ hai

[sửa | sửa mã nguồn]

Bị mất

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 11 tháng 6, tàu tuần tra Hoa Kỳ USS PC-487 phát hiện I-24, thoạt tiên qua sonar và sau đó qua radar, và cuối cùng bằng mắt thường trong biển Bering về phía Đông Bắc đảo Shemya; ghi nhận chiếc tàu ngầm nâng cao cả hai kính tiềm vọng, rõ ràng do bối cảnh sương mù dày đặc khiến tầm nhìn rất kém.<ref name=CBF>Sau khi I-24 nhìn thấy đối thủ và lặn xuống, PC-487 thả mìn sâu tấn công mục tiêu, buộc I-24 phải trồi lên mặt nước, rồi húc vào đối phương với vận tốc 19 kn (35 km/h), đè lên thân chiếc tàu ngầm.[7] PC-487 sau đó lùi lại và húc vào đối phương một lần nữa, húc trúng tháp chỉ huy.[7] I-24 lật nghiêng và đắm với tổn thất toàn bộ 104 thành viên thủy thủ đoàn, tại tọa độ 53°16′B 174°24′Đ / 53,267°B 174,4°Đ / 53.267; 174.400.[7]

Vào ngày 11 tháng 6, 1943, Hải quân Nhật Bản công bố I-24 có thể đã bị mất tại khu vực quần đảo Aleut với tổn thất toàn bộ thành viên thủy thủ đoàn trên tàu.[7] Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 1 tháng 8, 1943.[6][7]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n “Type C1”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  2. ^ Campbell (1985), tr. 191.
  3. ^ Bagnasco (1977), tr. 192.
  4. ^ Chesneau (1980), tr. 201.
  5. ^ a b Carpenter & Polmar (1986), tr. 104.
  6. ^ a b c d e f “I-24(2) ex No-48”. ijnsubsite.info. 20 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2024.
  7. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa ab ac ad ae af ag ah ai aj ak al am an ao ap aq ar Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2017). “IJN Submarine I-24: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2024.
  8. ^ Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2017). “IJN Submarine I-124: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2024.
  9. ^ a b c d e f g h Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2013). “IJN Submarine I-22: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2024.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Boyd, Carl & Yoshida, Akikiko (2002). The Japanese Submarine Force and World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-015-0.
  • Campbell, John (1985). Naval Weapons of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 978-0870214592.
  • Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Hashimoto, Mochitsura (1954). Sunk: The Story of the Japanese Submarine Fleet 1942 – 1945. Colegrave, E.H.M. (translator). London: Cassell and Company. ASIN B000QSM3L0.
  • Milanovich, Kathrin (2021). “The IJN Submarines of the I 15 Class”. Trong Jordan, John (biên tập). Warship 2021. Oxford, UK: Osprey Publishing. tr. 29–43. ISBN 978-1-4728-4779-9.
  • Morison, Samuel Eliot (1949). “The Struggle for Guadalcanal”. The History of United States Naval Operations in World War II. 5. Edison, NJ: Castle Books. tr. 131–134, 233.
  • Stille, Mark (2007). Imperial Japanese Navy Submarines 1941-45. New Vanguard. 135. Botley, Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN 978-1-84603-090-1.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]


Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Bạn không thể mất tiền vì Trade nếu... không Trade
Bạn không thể mất tiền vì Trade nếu... không Trade
Nghe thấy rất nhiều tin tốt về một dự án tưởng như sẽ là tương lai với backers xịn, KOLs lớn tâng bốc lên mây, bạn lập tức mua vào và chờ ngày x10 x100
Nhân vật Ibara Mayaka trong Hyouka
Nhân vật Ibara Mayaka trong Hyouka
Ibara Mayaka (伊原 摩耶花, Ibara Mayaka ) là một trong những nhân vật chính của Hyouka
Review film: Schindler's List (1993)
Review film: Schindler's List (1993)
Người ta đã lùa họ đi như lùa súc vật, bị đối xữ tàn bạo – một điều hết sức đáng kinh ngạc đối với những gì mà con người từng biết đến
Lịch sử ngoài đời thật cho tới các diễn biến trong Attack on Titan
Lịch sử ngoài đời thật cho tới các diễn biến trong Attack on Titan
Attack on Titan là một bộ truyện có cốt truyện rất hấp dẫn, đừng nên đọc để bảo toàn trải nghiệm tận hưởng bộ truyện nếu bạn chưa đọc truyện.