Năm 1817, khi Thoại Ngọc Hầu về trấn thủ trấn Vĩnh Thanh, thấy việc giao thông thương mại ở vùng đất này gặp nhiều khó khăn, mọi trao đổi hàng hóa thời bấy giờ giữa miền duyên hải Hà Tiên, Rạch Giá (nay đều thuộc tỉnh Kiên Giang) đều phải đi vòng đường biển thật bất tiện. Và cũng nhận thấy cần phải khơi nguồn để tháo bớt một phần nước lụt của sông Hậu ra biển Rạch Giá. Vì hai lẽ đó, ông đã nghĩ ngay đến việc phải đào một con kênh.
Kênh khởi công vào đầu năm 1818, nối rạch Long Xuyên ở Tam Khê [3] với hệ thống thủy đạo ở Rạch Giá [4], huy động khoảng 1.500 nhân công. Nhờ đào theo lạch nước cũ nên công việc khá thuận lợi, một tháng đã hoàn thành với bề rộng 20 tầm (51,2 m), chiều dài 12.410 tầm (31, 744 km)[5].
Trích văn bia Thoại Sơn:
Mùa thu năm Đinh Sửu (1817), lão thần kính, được vua trao ấn phù giữ trấn Vĩnh Thanh, mùa xuân năm Mậu Dần (1818) vâng chỉ đốc suất đào kênh Đông Xuyên.
Từ ngày thụ mệnh vua, sớm khuya kính sợ, đốn cây rậm, bới bùn lầy, đào kênh dài đến 12.410 tầm, trải qua một tháng thì xong việc, nghiễm nhiên trở thành ra một sông to, luôn luôn ghe thuyền qua lại tiện lợi...[6]
Kênh đào xong, ông được vua Gia Long khen ngợi và cho phép lấy ông lấy tên mình để đặt tên cho con kênh mới đào là Thoại Hà và núi Sập là Thoại Sơn.
Để đánh dấu một công trình nhiều ý nghĩa này, Thoại Ngọc Hầu cho soạn một bài văn khắc vào bia đá. Đầu bia chạm to hai chữ Thoại Sơn[7]. Năm Minh Mạng thứ ba (1822), ông long trọng làm lễ dựng bia tại miếu thờ Sơn thần (nay là ngôi đình thờ ông làm Thành hoàng) bên triền núi Sập.
Núi Thoại Sơn ở cách huyện Tây Xuyên 71 dặm về phía nam, cao 20 trượng, chu vi 11 dặm rưỡi, tục gọi là núi Lấp [8], có khe Hương chảy vào phía tây đổ vào sông Thoại Hà (tục gọi là rạch Ba Rạch)... Năm Gia Long thứ 17, trấn thủ Vĩnh Thanh là Nguyễn Văn Thoại sửa sang sông Thoại Hà, công việc xong, vẽ bản đồ dâng lên, nhà vua thấy bờ đông bắc sông có núi Lấp, cho đổi tên là Thoại Sơn để nâng cao công lao của Nguyễn Văn Thoại, Thoại dựng đền thờ ở chân núi và lập bia, khắc hai chữ lớn "Thoại Sơn".[9]
Thoại Hà tục gọi là Ba Rách, rộng 8 tầm, sâu 14 thước ta, cách trấn về phía tây 214 dặm. Ở bờ phía tây 4 dặm rưỡi đến ngã ba sông, hợp với sông Cần Đăng; qua tây nam 59 dặm đến cửa sông Lạc Dục; từ đấy đi về nam 57 dặm rưỡi đến ngòi nhỏ Song Giang, bùn ứ, cây cỏ ngăn lấp, thuyền bè không đi được. Tháng 11 niên hiệu Gia Long thứ 16 (1817), vua sai Trấn thủ trấn Vĩnh Thanh là Thoại Ngọc Hầu điều dân Việt và dân Thổ 1.500 người, cấp cho gạo tiền để đốn chặt cây cối, đào vét cho thông, bề ngang sông là 12 tầm, sâu 4 thước ta, trong 1 tháng thì xong, ăn thông với thủy đạo Kiên Giang, nhân dân Việt, Thổ đi lại đều tiện lợi. Vua ban tên là Thoại Hà để ghi nhớ công của người bề tôi.[10]
Đến hôm nay, kênh vẫn còn có giá trị lớn về các mặt trị thủy, giao thông, thương mại, nông nghiệp và kênh cũng đã làm thay đổi bộ mặt thôn xóm ở hai bên bờ. Tất cả, thể hiện sức lao động sáng tạo xây dựng đất nước của nhân dân Việt và chính sách coi trọng thủy lợi để phát triển nhiều mặt của triều Nguyễn.
Trong Nam Kỳ phong tục diễn ca (1909) của Nguyễn Liên Phong, có đoạn thơ nói về con kênh này như sau:
^Vì sao "Thụy" đọc là "Thoại", GS. Nguyễn Văn Hầu giải thích: Miền Bắc, chữ 瑞 đọc là "Thụy", ngoài ra chữ "Thụy" còn là quốc quý thời nhà Nguyễn nên kiêng cữ (tr. 36). Tương tự, "Thụy Sơn" đọc là "Thoại Sơn".
^Người Khmer gọi nơi này Ba Rạch (hay Ba Lạch, Ba Rách. Từ "Ba" dịch là "Tam", "Rạch" dịch là "Khê"), tức Prêk Kramuõ sa, nghĩa là "sông sáp trắng nay tên quen dùng là Ba Dầu hoặc Ba Bần, thuộc xã Vĩnh Trạch, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
^Các con số quy đổi ghi theo sách Kỷ lục An Giang 2009 (Nhà xuất bản Thông Tấn, 2009, tr. 36). Xem thêm "Lịch sử hình thành vùng đất và con người Thoại Sơn" trên Cổng thông tin điện tử của huyện Thoại Sơn truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2013 [3].
^Bản dịch in trong Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang, tr.371-372.
^Bia Thoại Sơn có chiều cao 3 m, ngang 1,2 m, bề dày 0,2 m, mặt bia chạm đúng 629 chữ Hán, đang được bảo quản tốt trong Đình thờ Thoại Ngọc Hầu, tức miếu Sơn thần xưa tại triền núi Sập.
^"Núi Lấp" hay "núi Sập" đều là tên tục gọi. Sách Quốc sử tạp lục của Nguyễn Thiệu Lâu viết là "núi Lạp" (Nhà xuất bản Cà Mau, 1994, tr. 122).
^Viện sử học phiên dịch và chú giải, Đại Nam nhất thống chí (tập 5). Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2006, tr. 195.
^Nguyễn Liên Phong gọi kênh Thoại Hà là kênh Lạc Dục là sai, vì Lạc Dục chỉ là một nhánh của Tam Khê (theo Nguyễn Hữu Hiệp, Kinh Thoại Hà và những điều ngộ nhận, sách Nam Bộ xưa và nay, Nhà xuất bản TP.HCM, tr.99).
Nguyễn Văn Hầu,Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang, Nhà xuất bản Hương Sen, Sài Gòn, không ghi năm xuất bản.
Nhiều người soạn, Địa chí An Giang (tập 1). UBND tỉnh An Giang tổ chức biên soạn và ấn hành, 2003.
Nhiều tác giả, Kỷ yếu Hội thảo khoa học danh nhân Thoại Ngọc Hầu do Hội khoa học Lịch sử Việt Nam, UBND tỉnh An Giang và UBND thành phố Đà Nẵng phối hợp tổ chức và ấn hành năm 2009.
Zankyou no Terror là một phim nặng về tính ẩn dụ hình ảnh lẫn ý nghĩa. Những câu đố xoay vần nối tiếp nhau, những hành động khủng bố vô hại tưởng chừng như không mang ý nghĩa, những cuộc rượt đuổi giữa hai bên mà ta chẳng biết đâu chính đâu tà
Sự hiểu biết của mỗi người là khác nhau, theo như góc nhìn của tôi, hôn nhân có rất nhiều kiểu, thế nhưng một cuộc hôn nhân làm cho người trong cuộc cảm thấy thoải mái, nhất định cần phải có tình yêu.