Quốc sử quán (國史館) | |
Tổng quan Cơ quan | |
---|---|
Thành lập | Ngày 5 tháng 6 năm Minh Mạng thứ 2 (1821) |
Cơ quan tiền thân |
|
Giải thể | 23 tháng 8 năm 1945 |
Cơ quan thay thế | |
Quyền hạn | Triều Nguyễn |
Trụ sở | Quốc sử quán |
Lãnh đạo Cơ quan |
Quốc sử quán (chữ Hán: 國史館) là cơ quan biên soạn lịch sử chính thức của triều Nguyễn hoạt động từ năm 1821 tới năm 1945. Cơ quan này đồng thời cũng tham gia cả chủ đề về văn hóa, địa lý, con người của Việt Nam[1].
Tháng 7 năm 1820, Quốc Sử quán bắt đầu được xây dựng và hoàn tất sau đó 1 tháng, tọa lạc tại phường Phú Văn trong Kinh thành Huế (nay thuộc phường Thuận Thành, thành phố Huế). Sau đó nửa năm, vua Minh Mạng cho xây dựng và cải tạo lại hai dãy nhà bên tòa nhà chính thành nơi làm việc của quan lại, đồng thời ở cổng chính cho dựng hai tấm bia "Khuynh cái hạ mã" ở hai bên. Tới ngày 5 tháng 6 năm 1821, vua Minh Mạng cho làm lễ khai mạc Quốc sử quán tại điện Cần Chánh và chính thức đưa nó vào hoạt động.[1]
Đến tháng 11 năm 1841, Quốc Sử Quán có thêm hai tòa nhà phụ nữa nằm ở hai bên do vua Thiệu Trị xây: tòa nằm bên trái dành cho các toản tu tên là Công thự, bên phải dành cho các biên tu tên là Giải vũ đài. Tháng 10 năm 1857, vua Tự Đức cho xây thêm Tàng bản đường nằm ở phía sau tòa nhà chính để đáp ứng nhu cầu chứa các tài liệu biên soạn và in ấn. Đến tháng 2 năm 1884, một dãy nhà ngói 7 gian 2 chái được xây thêm để dùng cho việc viên soạn Đại Nam thực lục chính biên kỷ thứ tư.[1]
Năm 1890, một số nhà quan tản cư được sửa chữa, đồng thời cho đóng thêm một số tủ gỗ sơn son để lưu trữ tư liệu và sách vở. Đến thời vua Thành Thái, một số tòa nhà phụ được tu bổ lại. Năm 1902, hầu hết Quốc sử quán được trùng tu lại. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Quốc sử quán ngưng hoạt động hoàn toàn.[1]
Năm 1964, trường Nữ Trung học Thành Nội được xây dựng trong khuôn viên Quốc sử quán. Từ năm 1976, trường này trở thành trường Trung học phổ thông Nguyễn Huệ.
Ban biên soạn của Quốc sử quán được chia thành các chức vụ và quyền hạn như sau[1]:
Vai trò | Chức vụ | Quyền hạn và trách nhiệm | ||||
---|---|---|---|---|---|---|
Chỉ đạo biên soạn¹ | Giám tu | Chỉ đạo biên soạn nội dung thay mặt nhà vua | ||||
Tổng tài | Phụ trách việc biên soạn | |||||
Viết, biên tập và lưu trữ² | Toản tu | Soạn và sửa nội dung | ||||
Biên tu | Biên soạn | |||||
Khảo hiệu | Kiểm tra nội dung và sửa chữa (hiệu đính) | |||||
Đằng lục | Chép nội dung để chuyển cho thợ in | |||||
Bút thiếp thức | Phiên dịch và chép lại nội dung | |||||
Thư chưởng | Bảo quản tài liệu | |||||
Nhập lưu | Bảo quản tài liệu | |||||
¹ Giám tu và tổng tài sẽ chỉ đạo và chịu trách nhiệm về việc biên soạn trước vua. Các vị này đa số đều kiêm nhiềm nhiều chức, nên có mặt tại Quốc sử quán không thường xuyên. |
Công trình đầu tiên Quốc sử quán biên soạn là Liệt thánh thực lục viết về các chúa Nguyễn. Tiếp đó là các cuốn Đại Nam Thực lục tiền biên và chính biên, Minh Mệnh chính yếu, Liệt truyện tiền biên ở thời Thiệu Trị, vì nhiều công việc như vậy nên thời gian này nhân sự làm việc trong Quốc sử quán được chấn chỉnh, nhân lực được tăng cường, vật tư dùng để làm việc cung ứng đủ và được sử dụng một cách tiết kiệm nhất.[1]
Quốc sử quán triều Nguyễn là một cơ quan văn hóa - giáo dục chịu sự chi phối trực tiếp của nhà vua; dưới sự giám sát của Bộ Lại và Đô sát viện; tuân thủ những nghi thức do Bộ Lễ đặt ra. Tháng Chín năm Tự Đức thứ 31 (1878), triều đình “cấp cho một con dấu bằng đồng, khắc bốn chữ Quốc sử quán ấn, một con dấu kiềm bằng ngà khắc hai chữ Sử quán”, mục đích nhằm nâng cao vai trò chuyên trách của Quốc sử quán, khẳng định pháp lí của bộ máy công quyền trong việc biên soạn quốc sử.[2]
Quốc sử quán trong suốt 125 năm hoạt động đã để lại rất nhiều công trình lịch sử địa lý quy mô, được biên soạn một cách chặt chẽ nhất theo phong cách viết sử Việt Nam kết hợp Trung Quốc. Số công trình có thể được chia thành các nhóm[1]:
Các tư liệu lịch sử của Quốc sử quán được xem là một nguồn tư liệu đồ sộ. Đã được dịch và xuất bản ở nhiều nước bằng nhiều thứ tiếng. Là cơ sở quan trọng để nghiên cứu khoa học, xã hội và lịch sử Việt Nam dù có nhiều hạn chế về quan điểm. Hiện ở Việt Nam, nó vẫn được tiếp tục nghiên cứu và tái bản, và khai thác[1].