Lily Collins

Lily Collins
Collins vào năm 2019
SinhLily Jane Collins
18 tháng 3, 1989 (35 tuổi)
Guildford, Surrey, Anh
Tư cách công dân
  • Anh
  • Hoa Kỳ
Nghề nghiệp
  • Diễn viên
  • người mẫu
Năm hoạt động1991 – nay
Phối ngẫu
Charlie McDowell (cưới 2021)
Cha mẹPhil Collins
Jill Tavelman
Người thân
Chữ ký

Lily Jane Collins (sinh ngày 18 tháng 3 năm 1989) là một nữ diễn viên, người mẫu Anh - Mỹ,[1] bố cô Phil Collins giọng ca chính của Genesisngười Anh và mẹ cô là Jill Tavelman là người Mỹ,cô sinh ra ở Surrey Anh Quốc và chuyển đến Los Angeles từ khi còn nhỏ.

Vai diễn đầu tiên của cô là ở tuổi hai trong loạt phim Growing Pains của BBC. Cô theo học khoa báo chí tại Đại học Nam California. Từ khi còn là thiếu niên, cô đã viết cho tạp chí Seventeen, Teen VogueThe Los Angeles Times. Cô đã được tạp chí Glamour của Tây Ban Nha bình chọn là Người mẫu của năm sau khi được Chanel lựa chọn để mặc một trong những bộ áo choàng của họ tại Hotel de Crillon năm 2007. Năm 2008, cô được mệnh danh là Newest Red Carpet CorrespondentOne to Watch. Collins xuất hiện như một ngôi sao khách mời trong bộ phim truyền hình ăn khách tuổi teen 90210 năm 2009, tiếp theo là bộ phim điện ảnh bán chạy nhất của cô The Blind Side. Cô đã đóng vai chính trong bộ phim khoa học viễn tưởng Priest (2011) và phim hành động tâm lý Abduction. Cô được đề cử giải Teen Choice Adward cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất - Sci-Fi / Fantasy cho vai "Snow White" trong Gương kia ngự ở trên tường. Cô nhận được sự công nhận rộng rãi sau khi đảm nhận vai "Clary Fray" trong bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết của tiểu thuyết bán chạy nhất của Cassandra Clare - The Mortal Instruments: City of Bones, cô được cô đề cử giải Teen Choice Adward cho Nữ diễn viên phim hành động xuất sâc nhất và giải thưởng MTV Movie. Collins cũng được biết đến với vai diễn trong các bộ phim khác, như ba bộ phim hài Stuck in Love (2012), The English Teacher (2013) và Love, Rosie (2014). Cô đoạt giải New Hollywood Film Award và nhận được đề cử Quả Cầu Vàng cho Nữ diễn viên phim hài kịch cuất sâc nhất với vai "Marla Mabrey" trong Rules Don't Apply (2016). Năm 2017, tiểu thuyết đầu tay của cô, Unfiltered: No Shame, No Regrets, Just Me đã được phát hành và nhận được nhiều khen ngợi. Tháng 5 năm 2017, Lily Collins và Marti Noxon được vinh danh tại Project Heal cho bộ phim To the Bone của họ.[2]

Đầu đời

[sửa | sửa mã nguồn]

Collins sinh ra ở Guildford, Surey.[3] Cô là con gái của nhạc sĩ, ca sĩ người Anh Phil Collins và vợ thứ hai, Jill Tavelman, một người Mỹ từng là chủ tịch câu lạc bộ phụ nữ Beverly Hills.[4] Ông nội của cô là một người Do Thái Canada nhập cư, sở hữu một cửa hàng quần áo nam ở Beverly Hills, California trong nhiều năm.[5] Sau khi bố mẹ ly dị khi cô lên bảy vào năm 1996, Collins chuyển đến Los Angeles cùng mẹ cô. Cô tốt nghiệp trường Harvard-Westlake và theo học tại Đại học Nam California, chuyên ngành báo chí.[6] Collins là em gái của nhạc sĩ Simon Collins từ cuộc hôn nhân đầu tiên của cha mình và Joely Collins từ cuộc hôn nhân lần thứ ba của cha mình. Cô đã được giới thiệu lần đầu tại Bal des Débutantes ở Paris vào năm 2007.[7] Khi còn là thiếu niên, Collins bị rối loạn ăn uống mà sau này được cô tiết lộ trong cuốn sách của cô Unfiltered: No Shame, No Regrets, Just Me.[8]

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Collins bắt đầu diễn xuất từ năm 2 tuổi trong loạt phim Growing Pains của BBC.[9] Trong những năm thiếu niên, Collins đã viết báo cho NY Confidential, tạp chí Anh Elle Girl.[10] Cô cũng viết cho Seventeen,[11] Teen Vogue[12]Los Angeles Times.[13] Cô đã được Chanel lựa chọn để mặc một trong những áo choàng của họ tại buổi dạ hội Bal des dutubesantes năm 2007 tại Hôtel de Crillon ở Paris, sau đó được phát sóng ở season 3 của loạt phim truyền hình thực tế The Hills.[10][14] Năm 2008 cô đã được tạp chí Glamour của Tây Ban Nha bình chọn làm Người mẫu Quốc tế của năm[15] và xuất hiện trên bìa tạp chí vào tháng 8 năm 2009. Collins đã tham gia bộ phim Kids Pick the President (mùa 2008).[13][16] Cô đã nhận được giải Young Hollywood năm 2007 cho "Newest Red Carpet Correspondent."[17]

Trong năm 2009, Collins xuất hiện trong hai tập của bộ phim truyền hình tuổi teen 90210, bao gồm tập cuối của mùa đầu tiên. Collins được tạp chí Maxim bình chọn trong danh sách "Hottest Daughters of Rock Stars" năm 2009.[18] Cũng trong năm 2009, Collins đóng vai chính trong bộ phim The Blind Side với vai "Collins Tuohy", con gái của nhân vật "Leigh Anne Tuohy" (do Sandra Bullock thủ vai). Năm 2011, cô đóng vai "Lucy", con gái của một giáo sĩ trong bộ phim Priest, kẻ thù của "Paul Bettany".[19][20] MTV Networks 'NextMovie.com đã gọi cô ấy là moitj trong những "Ngôi sao đáng theo dõi nhất" năm 2011.[21] Cô đã tham gia vào bộ phim hành động Abduction với Taylor Lautner năm 2011.[22]

Collins tại Liên hoan phim quốc tế Toronto năm 2012

Năm sau, Collins đóng vai "công chúa Mary Margaret Blanchard" (Bạch Tuyết) trong bộ phim Gương kia ngự ở trên tường, một bộ phim điện ảnh chuyển thể từ truyện cổ tích Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn, cùng với Julia Roberts. Robbie Collin từ báo The Daily Telegraph viết về Collins: "Cô ấy có một khuôn mặt đáng yêu, đáng nể, gần như hoàn hảo cho điện ảnh, như Audrey Hepburn với lông mày của Liam Gallagher. Nụ cười của cô ấy thể hiện sự thuần khiết và táo bạo."[23] Cô đã thực hiện ca khúc đầu tay của mình trong bộ phim, với một bản tiếng Anh viết lại của ca khúc "I Believe (trong tình yêu)". Cũng trong năm 2012, Collins diễn vai "Samantha" trong Stuck in Love, diễn xuất cùng với Jennifer Connelly, Logan LermanGreg Kinnear.[24] Collins ban đầu được tuyển vào đóng vai nữ chính trong bộ phim Ma cây (2013), nhưng cô lại không thể đảm nhận vai diễn này do các vấn đề liên quan tới lịch làm việc.[25][26] Collins sau đó đã đóng vai "Clary Fray" trong bộ phim The Mortal Instruments: City of Bones, bộ phim chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất của The New York Times - Mortal Instruments do Cassandra Clare viết.[27] Vào tháng 10 năm 2013, Collins xuất hiện trong video âm nhạc "City of Angels" của Thirty Seconds to Mars.[28] Ngay sau đó cô thông báo rằng sẽ trở thành đại sứ thương hiệu mới của Lancôme cùng với Julia Roberts, Daria WerbowyEmma Watson.

Năm 2014, Collins đóng vai "Rosie Dunne" trong bộ phim chuyển thể Love, Rosie cùng với Sam Claflin, do Cecelia Ahern viết.[29] Collins sau đó đóng vai "Marla Mabrey", cùng với Alden Ehrenreich, trong bộ phim hài Do not Apply (2016), từ nhà sản xuất Warren Beatty.[30] Năm 2016, Collins là nhận một vai trong bộ phim Thủ lĩnh cuối cùng dựa trên cuốn sách cuối của F. Scott Fitzgerald - The Last Tycoon. Collins đóng vai "Cecelia Brady", con gái của "Pat Brady" (do Kelsey Grammer thủ vai). Tháng 3 năm 2016, Collins tham gia bộ phim To the Bone, với vai trò vai chính và biên kịch, do Marti Noxon đạo diễn.[31] Cùng tháng đó, cô được mời tham gia bộ phim Okja của Netflix bên cạnh Jake GyllenhaalTilda Swinton, đạo diễn bởi Bong Joon-ho.[32]

Đời tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Collins tuyên bố vào năm 2013 rằng cô không thích thảo luận về sự quan tâm trong các mối quan hệ của mình một cách công khai vì cô đã chứng kiến những khó khăn do báo chí đưa tin về vụ ly hôn của cha mẹ cô.[33] Vào tháng 9 năm 2020, cô tuyên bố đính hôn với đạo diễn và nhà văn người Mỹ Charlie McDowell.[34] Họ đã kết hôn vào ngày 4 tháng 9 năm 2021 tại Dunton Hot Springs, Colorado.[35]

Chủ nghĩa tích cực

[sửa | sửa mã nguồn]

Collins là một người tuyên truyền chống bạo lực và là đại sứ cho tổ chức chống bạo lực Bystander Revolution,[36] thành lập bởi nữ nhà văn MacKenzie Bezos.[37]

Danh sách phim

[sửa | sửa mã nguồn]

Phim điện ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Vai Ghi chú
2009 The Blind Side Collins Tuohy
2011 Giáo sĩ Lucy Pace
Truy kích Karen Murphy
2012 Gương kia ngự ở trên tường Bạch Tuyết
Stuck in Love Samantha Borgens
2013 The English Teacher Halle Anderson
Vũ khí bóng đêm: Thành phố Xương Clary Fray
2014 Bồng bột tuổi dậy thì Rosie Dunne
2016 Rules Don't Apply Marla Mabrey
How to Be Single Quay phim
2017 To the Bone Ellen
Okja Red
Halo of Stars Misty Dawn
2024 MaXXXine

Phim truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Vai Ghi chú
2009 90210 Phoebe Abrams 2 tập
2016 The Last Tycoon Cecelia Brady
2020 Emily in Paris Emily Cooper 10 tập
2021 Emily in Paris 2 Emily Cooper 10 tập

Video ca nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tiêu đề Vai Nghệ sĩ
2013 Claudia Lewis The Alien Girl M83

Giải thưởng và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tác phẩm Giải thưởng Hạng mục Kết quả Nguồn
2008 Chính cô Giải Young Hollywood Nhân vật đáng theo dõi Đoạt giải
2012 Gương kia ngự ở trên tường Giải Sự lựa chọn của Giới trẻ Nữ diễn viên điện ảnh: Khoa học giả tưởng/Kỳ ảo Đề cử [38]
2013 Giải thưởng điện ảnh OFTA Âm nhạc, bài hát chuyển thể xuất sắc nhất
(cùng với: Nina Hart, Sam Hollander, Tarsem Singh)
Đề cử
Vũ khí bóng đêm: Thành phố Xương Giải Điện ảnh của MTV Summer's Biggest Teen Bad A** Đề cử
2014 Giải Sự lựa chọn của Giới trẻ Nữ diễn viên: Hành động Đề cử [39]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Willis, Jackie. “10 Things You Didn't Know About Lilly Collins”. Celebuzz. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2015.
  2. ^ “Lily Collins Attends The Project Heal Gala”. BeautifulBallad. 17 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2017.
  3. ^ Lansden, Pamela (10 tháng 4 năm 1989). “Take One”. People. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2009.
  4. ^ “No date for the red carpet? These guys took the folks instead”. Glamour. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2015.
  5. ^ Bloom, Nate (30 tháng 3 năm 2012). “Jews in the News: Barbara Walters, Kyra Sedgwick and Mare Winningham”. Letmypeoplegrow.org. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2014.
  6. ^ Cable, Simon (4 tháng 12 năm 2008). “My, hasn't Phil Collins's little Lily blossomed?”. Daily Mail. London. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2009.
  7. ^ Nikkhah, Roya (25 tháng 11 năm 2007). “New elite comes out at the billionaires' ball”. The Daily Telegraph.
  8. ^ Miller, Julie. “Lily Collins Opens Up About Conquering Her Eating Disorder”. HWD (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2017.
  9. ^ Alexander, Hilary (20 tháng 8 năm 2014). “Lily's mix and match”. The Daily Telegraph. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2015.
  10. ^ a b Methven, Charlotte (30 tháng 11 năm 2007). “Genesis of a frock star: Lily Collins on the rock star dad who walked out on her”. Daily Mail. London. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2009.
  11. ^ Collins, Lily (6 tháng 9 năm 2008). “At the RNC: Lilly Collins Reports (Again)!”. Seventeen. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2009.
  12. ^ Collins, Lily (19 tháng 5 năm 2008). “What a Ball!”. Teen Vogue. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2009.
  13. ^ a b Collins, Lily (tháng 3 năm 2009). “Obama's Inauguration: All Together Now”. Los Angeles Times. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2009.
  14. ^ Nikkhah, Roya (25 tháng 11 năm 2007). “New elite comes out at the billionaires' ball”. The Daily Telegraph. London. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2009.
  15. ^ Glamour premia a las Mujeres del Año. ABC. Madrid. 14 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2009.
  16. ^ Weprin, Alex (20 tháng 8 năm 2008). “Nickelodeon Gets Political with Election Programming”. Broadcasting & Cable. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2009.
  17. ^ “Lily Collins – Young Hollywood Awards”. Life. 2008. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2009.[liên kết hỏng]
  18. ^ “The Hottest Daughters of Rock Stars”. Maxim. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2009.
  19. ^ “Bio of Lily Collins”. Tribute. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2009.
  20. ^ Fleming, Michael (23 tháng 8 năm 2009). “Collins join 'Priest' hood”. Variety. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2009.
  21. ^ Evry, Max (5 tháng 1 năm 2011). “25 Breakout Stars to Watch for in 2011”. NextMovie.com. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2011.
  22. ^ Sneider, Jeff (15 tháng 4 năm 2010). “Lily Collins Joins Taylor Lautner in 'Abduction'. TheWrap.
  23. ^ Collin, Robbie (30 tháng 3 năm 2012). “Mirror, Mirror – review”. The Daily Telegraph. London. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2012.
  24. ^ Sneider, Jeff (6 tháng 3 năm 2012). “Cast set for 'Writers'. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2012.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  25. ^ “We've Discovered Who Plays The Lead In 'The Evil Dead' Remake – Meet The New Ash!”. Bloody Disgusting. 4 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2012.
  26. ^ 'The Evil Dead' Remake Loses Lily Collins”. Indiewire. 24 tháng 1 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2015.
  27. ^ Fleming Jr, Mike. “For Young Thesps, It's All About Locking Roles Before Holidays”. Deadline.com. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2010.
  28. ^ Schillaci, Sophie (29 tháng 10 năm 2013). “Kanye West, Selena Gomez Among Artists in 30 Seconds to Mars' 'City of Angels'. Billboard. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2014.
  29. ^ Tartaglione, Nancy (4 tháng 2 năm 2013). “Lily Collins, Sam Claflin Board Romantic Comedy 'Love, Rosie'. Deadline.com.
  30. ^ Busch, Anita (21 tháng 2 năm 2014). “Warren Beatty's Untitled Howard Hughes Pic Finally Takes Flight Financed By Billionaire Boys' Club; Ehrenreich, Collins To Star In Love Story; Bening And Broderick Also In”. Deadline.com. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2014.
  31. ^ Hipes, Patrick (21 tháng 3 năm 2016). “Lily Collins To Star In Marti Noxon's Dark Anorexia Comedy 'To The Bone'. Deadline.com.
  32. ^ Sneider, Jeff (22 tháng 3 năm 2016). “Lily Collins to Join Jake Gyllenhaal in Netflix's Monster Movie 'Okja' (Exclusive)”. TheWrap.
  33. ^ “Lily Collins in awe of Depp”. The Belfast Telegraph. 6 tháng 8 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2015.
  34. ^ “Lily Collins Says Unique Diamond Engagement Ring Is 'Exactly What I Wanted ... He Knew Me So Well'. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  35. ^ Brockington, Ariana (7 tháng 9 năm 2021). “Lily Collins Marries Charlie McDowell: "We Officially Became Each Other's Forever". The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2021.
  36. ^ “Lily Collins Teams Up with Bystander Revolution to Change Student Perception About Bullying”. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2015.
  37. ^ “Bystander Revolution, About”. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2015.
  38. ^ “Teen Choice Awards 2012: 'Vampire Diaries' Leads Nominations”. The Hollywood Reporter. ngày 18 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2015.
  39. ^ “2014 Teen Choice Awards Winners and Nominees - complete list”. HitFix. ngày 10 tháng 8 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2015.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Một vài thông tin về Joy Boy  - One Piece
Một vài thông tin về Joy Boy - One Piece
Ông chính là người đã để lại một báu vật tại hòn đảo cuối cùng của Grand Line, sau này báu vật ấy được gọi là One Piece, và hòn đảo đó được Roger đặt tên Laugh Tale
[Review Game] Silent Hill: The Short Messenger
[Review Game] Silent Hill: The Short Messenger
Tựa game Silent Hill: The Short Messenger - được phát hành gần đây độc quyền cho PS5 nhân sự kiện State of Play
Nhân vật Chitanda Eru trong Hyouka
Nhân vật Chitanda Eru trong Hyouka
Chitanda Eru (千反田 える, Chitanda Eru) là nhân vật nữ chính của Hyouka. Cô là học sinh lớp 1 - A của trường cao trung Kamiyama.
Guide Game Mirage Memorial Global cho newbie
Guide Game Mirage Memorial Global cho newbie
Các tựa game mobile này nay được xây dựng dựa để người chơi có thể làm quen một cách nhanh chóng.