Emma Watson

Emma Watson
Watson năm 2019
SinhEmma Charlotte Duerre Watson[1]
15 tháng 4, 1990 (34 tuổi)[2]
Le Marais, Paris, Pháp
Quốc tịchVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Anh Quốc[3]
Học vịCử nhân[4]
Trường lớpĐại học Brown
Cao đẳng Worcester, Oxford
Trường nữ sinh Headington
Trường Dragon
Trường Nghệ thuật Sân khấu Stagecoach
Nghề nghiệp
  • Diễn viên
  • người mẫu
  • nhà hoạt động xã hội
Năm hoạt động1999–nay
Tổ chứcLiên Hợp Quốc Liên Hợp Quốc[5][6]
Nổi tiếng vìHermione Granger trong loạt phim Harry Potter
Quê quánParis,  Pháp
Tài sảnTăng 80 triệu $ (2020)[7]
Chiều cao165 cm (5 ft 5 in)
Cân nặng53 kg (117 lb)
Cha mẹ
  • Chris Watson (cha)
  • Jacqueline Luesby (mẹ)
Người thânAlexander Watson (em trai)
Toby Watson (em trai)
Lucy Watson (em gái)
Nina Watson (em gái)
Giải thưởng25
Giọng Emma Watson (Hermione Granger) trong Harry Potter và Hòn đá Phù thủy (2001)
Chữ ký

Emma Charlotte Duerre Watson (/ɛmə/ /wˈɒtsən/[8]; sinh ngày 15 tháng 4 năm 1990)[9] là một nữ diễn viên, người mẫu kiêm nhà hoạt động xã hội người Anh. Sinh ra ở Paris và lớn lên tại Oxfordshire, Emma theo học tại Trường Brown[10] và theo học khóa đào tạo diễn viên tại chi nhánh Oxford của trường Nghệ thuật Sân khấu Stagecoach. Cô trở nên nổi tiếng sau khi đảm nhận vai diễn đầu đời Hermione Granger trong loạt phim Harry Potter, dù trước đó cô chỉ đóng kịch ở trường.[11] Watson xuất hiện trong cả tám phần phim Harry Potter từ năm 2001 đến 2011, đem về cho cô danh tiếng trên toàn thế giới, nhiều giải thưởng quan trọng và khối tài sản lên tới 60 triệu đô la Mỹ vào năm 2017[12][13] và khoảng 80 triệu đô-la Mỹ năm 2020.[14][15] Tờ báo nổi tiếng của Mỹ New York Times từng đánh giá Watson là ngôi sao có diễn xuất ấn tượng.[16]

Watson cũng xuất hiện trong bộ phim truyền hình chuyển thể từ tiểu thuyết năm 2007 của Anh Đôi giày Ba-lê và tham gia lồng tiếng cho bộ phim hoạt hình Hiệp sĩ chuột (2008). Sau bộ phim Harry Potter cuối cùng, cô đảm nhận vai chính và vai phụ trong một số bộ phim như Một tuần với kiều nữ (2011), Câu chuyện tuổi teen (2012) và trong Băng trộm tuổi teen (2013). Cô xuất hiện như phiên bản cường điệu của chính mình trong Sống nốt ngày cuối (2013) và đóng vai cô con gái nuôi của nhân vật chính trong Noah: Đại hồng thủy (2014). Cô tiếp tục đóng vai chính Belle trong bộ phim nhạc kịch giả tưởng lãng mạn Người đẹp và quái vật (2017) và vai Meg March trong bộ phim Những người phụ nữ bé nhỏ (2019), bộ phim sau đó được đề cử giải Oscar cho Phim hay nhất. Các vai diễn điện ảnh khác của cô bao gồm Truy hồi ký ức (2015), Tình yêu thời bạo loạn (2015) và Vòng xoay ảo (2017).

Từ năm 2011 đến năm 2014, Watson chia thời gian của mình giữa làm phim và tiếp tục việc học tại Đại học BrownCao đẳng Worcester, Oxford, và tốt nghiệp Brown với bằng cử nhân văn học Anh vào tháng 5 năm 2014. Ngoài ra Watson còn có chứng nhận dạy thiền và yoga.[17] Công việc người mẫu của cô bao gồm các chiến dịch quảng cáo cho BurberryLancôme. Cô còn tham gia thiết kế trang phục[cần dẫn nguồn] và đặt tên của mình cho dòng quần áo mang mục đích nhân đạo của nhãn hiệu People Tree.[18] Cô được Viện Hàn lâm Nghệ thuật Điện ảnh và Truyền hình Anh vinh danh năm 2014 khi Emma Watson giành giải Nghệ sĩ của năm. Cùng năm đó, cô được bổ nhiệm làm đại sứ thiện chí của Liên Hợp Quốc và giúp khởi động chiến dịch Phụ nữ Liên Hợp Quốc HeForShe[19], khuyến khích chung tay hướng tới việc bình đẳng giới.[20] Watson được bổ nhiệm vào cơ quan tư vấn về quyền phụ nữ của G7 vào năm 2019, tham vấn với các nhà lãnh đạo về chính sách đối ngoại. Năm 2020, Emma Watson được bổ nhiệm vào ban giám đốc Kering, với vai trò là Chủ tịch Hội đồng Phát triển Bền vững.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Emma được sinh ra tại Paris, Pháp. Cô là con gái đầu lòng của hai luật sư người Anh là bà Jacqueline Luesby và ông Chris Watson.[21][22][23] Emma sống ở Maisons-Laffitte gần Paris cho đến khi lên 5. Sau khi cha mẹ ly dị, cô chuyển về Anh để sống cùng mẹ ở Oxfordshire còn cuối tuần thì đến thăm cha ở Luân Đôn.[9][24] Emma tiết lộ rằng cô nói được một ít tiếng Pháp nhưng không còn lưu loát và tốt như trước nữa.[25]

Sau khi chuyển đến Oxford với mẹ và em trai, cô tiếp tục học tại trường tư Dragon School, Oxford cho đến năm 2003.[9] Từ năm lên 6 cô đã mơ ước thành diễn viên và tham gia[26] đào tạo tại một trường kịch nghệ bán thời gian là Stagecoach Theatre Arts chi nhánh ở Oxford. Tại đây cô được học hát, khiêu vũ và diễn xuất.[27]

Đến năm lên 10, Emma đã tham gia biểu diễn trong một vài tác phẩm của Stagecoach và các vở kịch tại trường học trong đó có Arthur: The Young YearsThe Happy Prince[28] nhưng chưa từng diễn xuất chuyên nghiệp trước khi tham gia loạt phim Harry Potter. Sau một thời gian học ở Dragon School, Emma chuyển sang trường Headington School, Oxford.[9] Trong thời gian quay phim, cô và các bạn diễn được dạy kèm tới 5 tiếng một ngày.[29] Tháng 6 năm 2006, Emma tham gia kỳ thi tốt nghiệp GCSE với 10 môn học và đạt được 8 điểm A* và 2 điểm A.[9][30]

Học vấn

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi rời trường học, Emma dành một năm nghỉ ngơi (gap year[31]) [32] để quay phim Harry Potter và Bảo bối Tử thần bắt đầu vào tháng 2 năm 2009[33] nhưng cô cho biết vẫn tiếp tục học tập.[34]. Sau đó cô xác nhận đã quyết định chọn học ở Đại học Brown tại Providence, Rhode Island.[35] Tháng 3 năm 2011, sau 18 tháng học đại học, cô tuyên bố sẽ hoãn chương trình học lại 1 hoặc 2 học kì.[36] và theo học tại Worcester College, Oxford trong năm học 2011–12 với vai trò "sinh viên thỉnh giảng".[37]

Emma chia sẻ trong chương trình của Ellen DeGeneres trước khi tốt nghiệp rằng cô phải mất tới 5 năm thay vì 4 năm do yêu cầu công việc, thành ra mất cả trọn hai học kì.[38]

Ngày 25 tháng 5 năm 2014, cô tốt nghiệp Đại học Brown với bằng cử nhân ngành Văn học Anh.[39]

Năm 2013, cô được chứng nhận về dạy yoga và thiền. Như là một phần của chứng nhận này, cô đã theo học một khóa thiền kéo dài 1 tuần lễ tại một cơ sở ở Canada, tại đây học viên không được phép nói chuyện, để có thể tự khám phá bản thân tại gia.[40][41] Cô nói với Elle Australia, một tương lai không chắc chắn có nghĩa là phải tìm " một cách để luôn cảm thấy an toàn và luôn thanh thản với chính mình. Bởi vì tôi không bao giờ có thể dựa vào một nơi vật chất nào đó."[42]

Đời tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong thời gian quay phim điện ảnh Noah, khi được hỏi về đức tin của mình, cô đã trả lời rằng mình là người theo thuyết phổ độ.[43]

Emma từng hẹn hò với Will Adamowicz, người bạn cùng trường tại Đại học Oxford năm 2011 trong năm đầu học tại đây.[44] Cả hai từng tới thăm dự lễ trao giải 2013 MTV Movie Awards và Emma nhận được giải Trailblazer Award.[45] Cặp đôi chia tay vào đầu năm 2014.[46] Cuối năm 2014, Emma bắt đầu hẹn hò với cầu thủ bóng chày là Matthew Janney.[47] Mối quan hệ đã chấm dứt trong tháng 11 cùng năm do lịch làm việc quá bận rộn của Emma.[48]

Emma Watson gặp gỡ William Mack Knight, một doanh nhân công nghệ từ cuối năm 2015, chỉ vài tháng sau khi chia tay Matthew Janney. Cặp đôi bị bắt gặp hẹn hò khi đến xem một buổi diễn tại sân khấu nhạc kịch Broadway vào tháng 10 năm 2015. Theo chia sẻ từ bà Katherine với tờ The Mirror, mẹ của William cho biết anh đã đưa bạn gái Emma về ra mắt cha mẹ và mối quan hệ tiến triển một cách nghiêm túc.[49]

Watson là một người độc thân, cô mô tả bản thân mình với cụm từ "tự hợp tác".[50][51] Marai Larasi, một nhà hoạt động về vấn đề bạo lực đối với phụ nữ, là khách mời của cô đến thăm dự Lễ trao giải Quả cầu vàng lần thứ 75 năm 2018.[52]

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Harry Potter

[sửa | sửa mã nguồn]

1999–2003: Khởi đầu và đột phá

[sửa | sửa mã nguồn]
Dấu tay, dấu giày và bản in đũa thần của Watson, Radcliffe, Grint (từ trái sang phải) tại Nhà hát Trung Quốc TCL năm 2007

Năm 1999, đoàn sản xuất phim Harry Potter và Hòn đá Phù thủy (Harry Potter and the Sorcerer's Stone), chuyển thể điện ảnh từ tiểu thuyết ăn khách cùng tên của nhà văn Anh J. K. Rowling bắt đầu quá trình tuyển diễn viên cho bộ phim.[53] Ba vai diễn quan trọng nhất của bộ phim là Harry Potter cùng hai người bạn thân Hermione GrangerRon Weasley. Những người tuyển diễn viên đã phát hiện ra Emma thông qua cô giáo dạy kịch của cô ở Oxford,[54] sự tự tin của cô đã gây ấn tượng với các nhà sản xuất phim. Sau tám tuần tuyển chọn, nhà sản xuất David Heyman tuyên bố đã lựa chọn Emma cùng Daniel RadcliffeRupert Grint cho ba vai Hermione, Harry và Ron. Sau khi xem những đoạn diễn thử đầu tiên của Emma, nhà văn Rowling đã bộc lộ sự ủng hộ với cô bé 9 tuổi.[26]

Harry Potter và Hòn đá Phù thủy (công chiếu năm 2001) là tác phẩm điện ảnh đầu tiên mà Emma Watson tham gia. Bộ phim đã phá kỉ lục về doanh thu ngày mở màn và tuần mở màn đồng thời trở thành phim ăn khách nhất năm 2001.[55][56] Diễn xuất của ba diễn viên chính đã được các nhà phê bình khen ngợi đặc biệt là Emma, tờ The Daily Telegraph đánh giá diễn xuất của cô là "tuyệt vời" ("admirable")[57] còn trang IGN cũng cho rằng cô đã chiếm lĩnh được màn ảnh ("stole the show").[58] Với vai Hermione Granger, Emma đã nhận được 5 đề cử ở các giải thưởng khác nhau trong đó cô đã được trao Young Artist Award ở hạng mục Diễn viên nữ trẻ xuất sắc nhất ở vai chính.[59]

Một năm sau bộ phim đầu tay, Emma Watson tiếp tục vào vai Hermione trong phần tiếp theo của loạt Harry Potter với tựa đề Harry Potter và Phòng chứa Bí mật (Harry Potter and the Chamber of Secrets) chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên. Tuy bộ phim không được đánh giá cao như phần đầu nhưng diễn xuất của dàn diễn viên chính vẫn được báo chí khen ngợi. Tờ Los Angeles Times cho rằng Emma và các bạn của cô đã trưởng thành theo thời gian,[60] tờ The Times thậm chí còn chỉ trích đạo diễn Chris Columbus vì đã không khai thác được hết nhân vật của Emma.[61] Với vai diễn trong Harry Potter và Phòng chứa Bí mật, Emma đã được tạp chí Đức Bravo trao giải Otto Award.[62]

2004–2011: Harry Potter và các vai trò khác

[sửa | sửa mã nguồn]
Watson tại buổi ra mắt phim Harry Potter và Chiếc cốc lửa vào tháng 11 năm 2005

Năm 2004, Harry Potter và Tù nhân Azkaban, phần thứ ba của loạt phim Harry Potter được công chiếu. Ở lần thứ ba tham gia diễn xuất, Emma tiếp tục được đánh giá cao trong vai cô bé Hermione quyết đoán, vai diễn của Emma được đánh giá là có sức lôi cuốn và là một vai diễn tuyệt vời cho các diễn viên.[63] Nếu như vai Harry Potter của Radcliffe gặp phải sự chỉ trích từ giới phê bình thì Emma tiếp tục được các báo khen ngợi, tờ The New York Times nhận xét rằng sự nhạt nhẽo của Radcliffe đã may mắn được bù đắp bởi diễn xuất sôi nổi của Emma đặc biệt là cảnh phim cô bé đấm vào mũi Draco Malfoy thay vì sử dụng phép thuật.[64] Tính đến năm 2009, Harry Potter và Tù nhân Azkaban vẫn là phần có doanh thu thấp nhất trong loạt Harry Potter, tuy vậy vai diễn của Emma Watson trong bộ phim này vẫn đem lại cho cô hai giải diễn xuất Otto Awards và Child Performance of the Year (Diễn xuất thiếu nhi của năm) của tờ Total Film.[65]

Emma Watson ký tặng người hâm mộ bên ngoài Grauman's Chinese Theatre

Tập tiếp theo của loạt phim với tựa đề Harry Potter và Chiếc cốc lửa (2005) là một thành công lớn về thương mại khi bộ phim phá kỉ lục về doanh thu cuối tuần đầu tiên công chiếu của loạt Harry Potter và kỉ lục về doanh thu cuối tuần đầu tiên công chiếu ở Anh. Sự trưởng thành của Emma và các bạn diễn đã được giới phê bình khen ngợi, tờ New York Times đánh giá vai diễn của cô đứng đắn một cách cảm động ("touchingly earnest").[66] Theo Emma thì sự hài hước của tập phim này đến từ những xung đột ở tuổi mới lớn của ba nhân vật chính, cô nói: "Tôi yêu thích tất cả những cuộc tranh luận... Tôi cho rằng bộ phim sẽ thật hơn rất nhiều nếu các nhân vật tranh cãi và gặp rắc rối."[67][68] Được đề cử ở ba giải thưởng cho vai Hermione, Emma đã giành giải Otto Award.[69] Cuối năm 2005, cô trở thành người trẻ tuổi nhất xuất hiện trên bìa của tạp chí Teen Vogue.[70] Năm 2006, Emma vào vai Hermione trong tập phim ngắn đặc biệt của loạt Harry Potter có tựa đề The Queen's Handbag để kỷ niệm sinh nhật lần thứ 80 của Nữ hoàng Elizabeth II.[71]

Emma Watson năm 2007

Tập phim thứ năm của Harry Potter có tựa đề Harry Potter và Hội Phượng hoàng được công chiếu năm 2007. Tiếp tục là một thành công lớn về mặt thương mại, bộ phim đã phá kỉ lục doanh thu cuối tuần đầu tiên trên thế giới với 332,7 triệu đô la Mỹ.[72] Emma được trao giải National Movie Award lần thứ nhất ở hạng mục Vai nữ chính xuất sắc nhất. Bộ ba Watson-Radcliff-Grint trở nên nổi tiếng tới mức họ được mời in dấu tay, dấy chân và dấu đũa thần lên vỉa hè của Grauman's Chinese TheaterHollywood vào ngày 9 tháng 7 năm 2007.[73] Tuy các tập phim Harry Potter liên tiếp thành công về doanh thu, tương lai của loạt phim lại bị đặt dấu hỏi khi cả ba diễn viên chính đều do dự trong việc tiếp tục vai diễn của họ trong hai tập cuối của Harry Potter.[74] Cuối cùng vào ngày 2 tháng 3 năm 2007 Radcliffe đã đồng ý ký nốt hợp đồng 2 tập phim cuối,[75] mặc dù vậy Emma thậm chí còn tỏ ra do dự hơn.[76] Cô giải thích rằng đó là một quyết định quan trọng vì để tham gia hai tập phim cuối cô sẽ phải gắn bó thêm 4 năm với quá trình làm phim nhưng rồi Emma thừa nhận rằng cô không thể rời bỏ vai Hermione[77] và đồng ý ký tiếp hợp đồng vào ngày 23 tháng 3 năm 2007.[78] Để đổi lại, Emma Watson được trả gấp đôi cho những tập phim cuối lên 2 triệu bảng Anh mỗi tập phim,[79] cô kết luận rằng cuối cùng thì việc tham gia phim vẫn có lợi hơn là có hại. Emma Watson listed in to [80]

Emma Watson tại buổi ra mắt phim Harry Potter và Hoàng tử lai.

Quá trình quay Harry Potter và Hoàng tử lai, tập thứ sáu của loạt phim, được bắt đầu từ cuối năm 2007 trong đó các cảnh phim có sự tham gia của Emma được quay từ ngày 18 tháng 12 tới ngày 17 tháng 5 năm 2008.[81][82] Bộ phim được dự kiến công chiếu chính thức ngày 15 tháng 7 năm 2009.[83]

Watson cùng Daniel Radcliffe (trái) và Rupert Grint tại buổi ra mắt phim Harry Potter và bảo bối tử thần - Phần 2 ở London vào tháng 7 năm 2011

Trước khi tập thứ sáu Harry Potter được công chiếu thì tập thứ bảy của bộ truyện, Harry Potter và Bảo bối Tử thần đã được khởi động vào ngày 18 tháng 2 năm 2009.[84] Vì lý do tài chính và kịch bản, tập cuối cùng của loạt phim được chia thành hai phần quay liền nhau,[33][85] và được công chiếu vào tháng 11 năm 2010 và tháng 7 năm 2011.[86] Harry Potter và Bảo bối Tử thần - Phần 2 đã trở thành bộ phim thành công cả về chuyên môn và thương mại. Đây là bộ phim có doanh thu cao nhất trong nhượng quyền thương mại, đã thu về hơn 1,3 tỷ đô la trên toàn thế giới và đã chứng minh đây là bộ phim thành công nhất về mặt thương mại của Watson.

Dự án khác

[sửa | sửa mã nguồn]

Vai diễn đầu tiên của Emma Watson không thuộc loạt Harry Potter là trong bộ phim truyền hình Ballet Shoes (2007).[87] Theo Emma thì mặc dù đã dự định quay trở lại trường học ngay sau khi hoàn thành Harry Potter và Hội Phượng hoàng nhưng cô không thể cưỡng lại vai diễn trong Ballet Shoes vì Emma thực sự yêu thích nó.[88] Đây là một chuyển thể truyền hình của đài BBC từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Noel Streatfeild trong đó vai của Emma Watson là nữ diễn viên Pauline Fossil, chị cả của ba chị em nhân vật chính.[89] Theo đạo diễn bộ phim là Sandra Goldbacher thì Emma Watson là lựa chọn hoàn hảo cho vai diễn, ở cô toát lên sự sâu sắc và tinh tế khiến mọi người phải ngắm nhìn.[90] Ballet Shoes được đài BBC phát tại Anh vào đúng dịp Boxing Day năm 2007 với lượng khán giả theo dõi ước tính khoảng 5,2 triệu (chiếm 22% tổng lượng khán giả truyền hình).[91][92] Sau khi phát sóng tác phẩm này không nhận được đánh giá cao từ giới phê bình, tờ The Times cho rằng Ballet Shoes chỉ là một bộ phim không có điểm nhấn.[93][94] Tuy vậy diễn xuất của dàn diễn viên trong đó có Emma vẫn nhận được những đánh giá tích cực từ báo giới.[95]

Ngoài vai diễn trong Ballet Shoes, Emma còn tham gia lồng tiếng cho nhân vật Công chúa Pea trong bộ phim hoạt hình The Tale of Despereaux, một tác phẩm có sự tham gia của Matthew BroderickTracey Ullman được công chiếu tháng 12 năm 2008.[13]

Cô cũng xuất hiện trong một video âm nhạc của One Night Only, sau khi gặp ca sĩ chính George Craig tại chiến dịch quảng cáo thời trang Đông-Hè của Burberry năm 2010. Video Say You Don't Want It, được chiếu trên Kênh 4 vào ngày 26 tháng 6 năm 2010 và được phát hành vào ngày 16 tháng 8.[96] Trong bộ phim hậu Harry Potter đầu tiên của mình, Watson đã xuất hiện trong Một tuần với kiều nữ (2011) trong vai Lucy, trợ lý phục trang của nhân vật chính; và được tán tỉnh bởi Colin Clark, người sau đó cô có vài cuộc hẹn hò.[97][98]

2012–nay

[sửa | sửa mã nguồn]
Watson tại Liên hoan phim Tribeca năm 2012

Vào tháng 5 năm 2010, Watson được cho là đang đàm phán để đóng vai chính trong bộ phim Câu chuyện tuổi teen dựa trên tiểu thuyết cùng tên. Quay phim chính bắt đầu vào mùa hè năm 2011 và bộ phim được phát hành vào tháng 9 năm 2012.[99][100]

Trong Băng trộm tuổi teen (2013), Watson đóng vai Nicki. Bộ phim dựa trên các vụ cướp Bling Ring ngoài đời thực, Watson vào vai một phiên bản hư cấu của Alexis Neiers, một nhân vật truyền hình là một trong bảy thanh thiếu niên tham gia vào các vụ cướp. Trong khi bộ phim chủ yếu nhận được nhiều ý kiến ​​trái chiều, các nhà phê bình đã dành những lời khen ngợi gần như nhất trí cho vai diễn của Watson. Watson cũng có một vai phụ trong bộ phim hài khải huyền Sống nốt ngày cuối (2013), trong đó cô, Seth Rogen, James Franco và nhiều diễn viên đã đóng vai "phiên bản cường điệu của chính họ" và Watson đã có một cảnh đáng nhớ trong sự nghiệp là thả "bom f".[101][102][103] Cô nói rằng cô không thể bỏ qua cơ hội để thực hiện bộ phim hài đầu tiên của mình và "làm việc với một số diễn viên hài hay nhất... trên thế giới ngay bây giờ".[104]

Watson tại Liên hoan phim Cannes năm 2013

Vào tháng 6 năm 2012, Watson đã được xác nhận cho vai Ila trong bộ phim Noah: Đại hồng thủy của Darren Aronofsky, bắt đầu quay phim chính vào tháng sau, và được phát hành vào tháng 3 năm 2014. Vào tháng 3 năm 2013, có thông tin rằng Watson đã tham gia đàm phán để đóng vai chính là nhân vật chính trong bộ phim hoạt hình Disney chuyển thể từ phim hoạt hình Cinderella. Kenneth Branagh đã gắn bó với việc chỉ đạo việc chuyển thể, trong khi Cate Blanchett đã đồng ý đóng vai người mẹ kế độc ác. Watson được đề nghị vai diễn, nhưng đã từ chối vì cô cho rằng mình không phù hợp với vai diễn nhân vật Lọ Lem. Vai này cuối cùng thuộc về Lily James.[105][106][107]

Vào tháng 10 năm 2013, Watson đã được chọn là Người phụ nữ của năm do tạp chí GQ của Anh bình chọn.[108] Cùng tháng đó, cô là một trong hai diễn viên người Anh giành được nhiều phiếu bình chọn nhất của khán giả cho danh hiệu Ngôi sao điện ảnh quyến rũ nhất năm 2013, vượt qua cả hai nữ diễn viên Scarlett JohanssonJennifer Lawrence trong hạng mục dành cho nữ trong cuộc thăm dò trực tuyến của hơn 50.000 người hâm mộ phim. Benedict Cumberbatch là nam diễn viên giành danh hiệu trong hạng mục dành cho nam giới.[109]

Watson đã tham gia cùng Judi Dench, Robert Downey Jr., Mike Leigh, Julia Louis-DreyfusMark Ruffalo với tư cách là người nhận Giải thưởng Britannia vào ngày 30 tháng 10 năm 2014 tại Los Angeles.[110] Watson đã giành giải Nghệ sĩ của năm và cô nói đã giành giải thưởng của mình vì Millie - chú chuột hamster của cô đã chết khi Watson quay phim Harry Potter và Hòn đá Phù thủy. Watson đóng vai chính trong hai phim phát hành năm 2015, bộ phim Colonia, đối nghịch với Daniel Brühl và Michael Nyqvist; và Truy tìm ký ức của Alejandro Amenábar, cùng với Ethan Hawke và đồng nghiệp đóng cùng Harry Potter của cô David Thewlis. Cả hai đều nhận được đánh giá tiêu cực nói chung. Cô cũng xuất hiện trong một tập phim The Vicar of Dibley, trong đó cô đóng vai Reverend Iris. Vào tháng 2 năm 2016, Watson tuyên bố cô sẽ nghỉ diễn một năm. Cô dự định dành thời gian cho "phát triển cá nhân" và công việc về quyền phụ nữ của mình.[111][112][113][114][115][116][117]

Watson tại buổi ra mắt phim Vòng xoay ảo năm 2017

Watson đã đóng vai Belle trong bộ phim live-action năm 2017 được chuyển thể từ phim hoạt hình cùng tên của Disney - Beauty and the Beast do Bill Condon đạo diễn, và đóng cùng Dan Stevens trong vai Quái thú.[118] Bộ phim kiếm được hơn 1,2 tỷ đô la tại phòng vé và là bộ phim có doanh thu cao thứ hai trong năm 2017, chỉ sau Star Wars: The Last Jedi và bộ phim có doanh thu cao thứ 14 mọi thời đại. Theo đó số tiền trả trước cho cô là 3 triệu đô la; sự tham gia của cô mang lại lợi nhuận nên nâng tổng số tiền trả cho cô lên tới 15 triệu đô la.[119] Cuối năm đó, cô đóng cùng Tom Hanks trong bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết Vòng xoay ảo của Dave Eggers, trong vai Mae Holland, một nhân viên công nghệ trẻ, làm việc tại một tập đoàn Internet hùng mạnh, chỉ nhận ra sự nguy hiểm liên quan đến quyền riêng tư, giám sát và tự do khi chính mình trải nghiệm.[120]

Năm 2019, Watson đóng vai chính Meg March (thay cho Emma Stone, người đã bỏ phim vì mâu thuẫn trong lịch trình) trong bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên và được đề cử giải Oscar của Greta Gerwig, Những người phụ nữ bé nhỏ. Trong phim cô đóng chung với Saoirse Ronan, Florence Pugh, Timothée Chalamet, Laura DernMeryl Streep.[121]

Các hoạt động khác

[sửa | sửa mã nguồn]

Người mẫu và lĩnh vực thời trang

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2005, Watson bắt đầu sự nghiệp người mẫu của mình bằng một buổi chụp hình cho Teen Vogue và là người trẻ nhất từng xuất hiện trên trang bìa của tạp chí. Ba năm sau, báo chí Anh đưa tin Watson sẽ thay thế Keira Knightley làm gương mặt đại diện cho nhà mốt Chanel, nhưng điều này đã bị cả hai bên từ chối. Vào tháng 6 năm 2009, sau vài tháng tin đồn, Watson đã xác nhận rằng cô sẽ hợp tác với Burberry với tư cách là gương mặt của chiến dịch Thu-Đông 2009 của họ, mà ước tính họ đã phải trả cho cô một khoản phí sáu con số. Cô cũng xuất hiện trong chiến dịch Xuân-Hè năm 2010 của Burberry cùng với em trai Alex, nhạc sĩ George CraigMatt Gilmour, người mẫu Max Hurd. Vào tháng 2 năm 2011, Watson đã được trao tặng giải thưởng Biểu tượng phong cách từ tạp chí Elle (Anh)[122] bởi Dame Vivienne Westwood. Watson tiếp tục tham gia vào quảng cáo thời trang khi cô tuyên bố cô đã được chọn làm gương mặt đại diện cho Lancôme vào tháng 3 năm 2011.

Vào tháng 9 năm 2009, Watson tuyên bố tham gia vào People Tree, một thương hiệu thời trang thương mại công bằng. Watson làm cố vấn sáng tạo cho công ty để tạo ra một dòng quần áo mùa xuân, được phát hành vào tháng 2 năm 2010; phạm vi đặc trưng của phong cách lấy cảm hứng từ miền nam nước PhápLondon. Bộ sưu tập, được The Times mô tả là "rất thông minh" mặc dù "hy vọng thầm lặng của họ rằng [cô] sẽ bị vướng vào rào cản vải gai" (hemp-woven hurdle), được công bố rộng rãi trên các tạp chí như Teen Vogue, CosmopolitanPeople. Watson không được trả tiền cho sự hợp tác, thừa nhận rằng cạnh tranh trong phạm vi là tối thiểu, nhưng lập luận rằng "Thời trang là một cách tuyệt vời để trao quyền cho mọi người và cung cấp cho họ các kỹ năng, thay vì đưa tiền từ thiện mà bạn có thể giúp đỡ mọi người bằng cách mua quần áo họ làm và hỗ trợ những thứ họ tự hào "; cô nói thêm: "Tôi nghĩ rằng những người trẻ tuổi như tôi ngày càng nhận thức được các vấn đề nhân đạo xung quanh thời trang nhanh và muốn đưa ra lựa chọn tốt nhưng không có nhiều lựa chọn ngoài kia." Watson tiếp tục tham gia vào People Tree, dẫn đến phát hành bộ sưu tập Thu-Đông 2010.

Watson đã được trao giải Phong cách Anh xuất sắc nhất tại Giải thưởng Thời trang Anh 2014. Cuộc thi bao gồm David Beckham, Amal Clooney, Kate MossKeira Knightley.

Vào ngày 16 tháng 6 năm 2020, trong buổi họp cổ đông thường niên, Kering - tập đoàn thời trang xa xỉ của Pháp ra thông cáo báo chí chính thức về việc bổ nhiệm thành viên mới trong hội đồng ban quản trị trong đó có Emma, với vai trò Chủ tịch Hội đồng Phát triển Bền vững của Kering. Hiện Kering là công ty mẹ của các công ty như Gucci, Saint Laurent, Balenciaga, Alexander McQueen...[123][124][125]

Hoạt động xã hội

[sửa | sửa mã nguồn]
Watson trong một chiến dịch của Liên Hợp Quốc Brazil năm 2017

Emma Watson còn được biết đến với vai trò của một nhà hoạt động xã hội, người ủng hộ cho quyền bình đẳng giới. Cô đã đến thăm nhiều quốc gia để cổ vũ việc nam nữ bình quyền.

Ngày 20 tháng 9 năm 2016, Emma Watson đã có mặt tại buổi họp của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc lần thứ 71 ở New York và có bài phát biểu về quyền bình đẳng giới và an toàn trường học. Đây là một phần trong chiến dịch HeForShe của Liên Hợp Quốc về quyền bình đẳng giới mà Emma Watson làm đại sứ vào năm 2014. Bài phát biểu đã truyền cảm hứng đến nhiều người.[126]

Quyền phụ nữ

[sửa | sửa mã nguồn]

Watson đã từng đến thăm BangladeshZambia để thúc đẩy việc giáo dục cho các bé gái.[127][128]

Vào tháng 7 năm 2014, cô được bổ nhiệm làm đại sứ thiện chí của phụ nữ Liên Hợp Quốc. Tháng 9 năm đó, Watson khởi động chiến dịch Phụ nữ Liên Hợp Quốc HeForShe, kêu gọi ủng hộ bình đẳng giới. Trong bài phát biểu đó, cô nói rằng cô bắt đầu đặt câu hỏi về các giả định dựa trên giới tính ở tuổi lên tám khi cô bị gọi là "hách dịch" trong khi con trai thì không đến khi cô 14 tuổi. Bài phát biểu của Watson cũng gọi nữ quyền là "niềm tin rằng đàn ôngphụ nữ nên có quyền và cơ hội như nhau" và tuyên bố rằng nhận thức về "ghét đàn ông" là điều "phải dừng lại". Watson sau đó nói rằng cô đã nhận được những lời đe dọa trong vòng 12 giờ sau khi phát biểu. Năm 2015, Malala Yousafzai nói với Watson rằng cô quyết định đi theo chủ nghĩa nữ quyền sau khi nghe bài phát biểu của Watson.

Cũng trong tháng 9, Watson đã có chuyến thăm quốc gia đầu tiên với tư cách là Đại sứ thiện chí phụ nữ của Liên Hợp Quốc tại Uruguay, nơi cô đã có bài phát biểu nhấn mạnh sự cần thiết phải tham gia chính trị của phụ nữ. Vào tháng 12, Quỹ Phụ nữ gọi Watson là Người nổi tiếng ủng hộ nữ quyền năm 2014 sau một cuộc thăm dò trực tuyến. Watson cũng có bài phát biểu về bình đẳng giới vào tháng 1 năm 2015, tại cuộc họp hàng năm của Diễn đàn kinh tế thế giới.

Watson chiếm vị trí số 1 trong danh sách "99 người phụ nữ có sức ảnh hưởng nhất năm 2015" của AskMen về việc ủng hộ các vấn đề quyền của phụ nữ. Một ngày sau khi cô tròn 25 tuổi, Watson xếp thứ 26 trong danh sách Time 100 của những người có ảnh hưởng nhất trên thế giới, lần đầu tiên cô xuất hiện trong danh sách này.[129] Cựu biên tập viên của tờ New York Times, Jill Abramson nói rằng "sự táo bạo, thông minh về nữ quyền" của Watson và kêu gọi nỗ lực khiến đàn ông tham gia "làm mới".

Vào tháng 1 năm 2016, Watson thành lập câu lạc bộ sách chuyên về nữ quyền: Kệ chung của chúng tôi. Mục tiêu của câu lạc bộ là chia sẻ ý tưởng nữ quyền và khuyến khích thảo luận về chủ đề này. Một cuốn sách được chọn mỗi tháng và được thảo luận trong tuần cuối cùng của tháng đó. Cuốn sách đầu tiên được lựa chọn là My Life on the Road của Gloria Steinem, người mà Watson sẽ phỏng vấn vào ngày 24 tháng 2 tại How to: Academy in London.

Vào tháng 3 năm 2017 Watson bị chỉ trích là đạo đức giả khi hở ngực xuất hiện trên tạp chí Vanity Fair. Đáp trả, cô lập luận rằng:

"Nữ quyền không phải là dùng gậy đánh bại phụ nữ, đó là sự tự do, giải phóng và bình đẳng".[130]

Vào tháng 7 năm 2019, Watson đưa ra một dòng tư vấn pháp lý cho những người đã bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Tư vấn pháp lý được thực hiện bởi Rights of Women, một tổ chức từ thiện hoạt động để giúp đỡ phụ nữ thông qua luật pháp.

Danh sách phim đã tham gia

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên phim Vai diễn Đạo diễn Ghi chú
2001 Harry Potter và Hòn đá Phù thủy Hermione Jean Granger Chris Columbus
2002 Harry Potter và Phòng chứa Bí mật
2004 Harry Potter và tên tù nhân ngục Azkaban Alfonso Cuarón
2005 Harry Potter và Chiếc cốc lửa Mike Newell
2007 Harry Potter và Hội Phượng Hoàng David Yates
Ballet Shoes Pauline Fossil Sandra Goldbacher Phim truyện truyền hình
2008 The Tale of Despereaux Công chúa Pea Sam Fell
Robert Stevenhagen
Lồng tiếng
2009 Harry Potter và Hoàng tử lai Hermione Jean Granger David Yates
2010 Harry Potter và Bảo bối Tử thần – Phần 1
2011 Harry Potter và Bảo bối Tử thần – Phần 2
Một tuần với kiều nữ Lucy Simon Curtis
2012 The Perks of Being a Wallflower Sam Stephen Chbosky
2013 The Bling Ring Nicki Moore Sofia Coppola
Sống nốt ngày cuối Chính cô/Emma Watson chính hiệu Seth Rogen
Evan Goldberg
2014 Đại hồng thủy Ila Darren Aronofsky
2015 The Vicar of Dibley Reverend Iris Andrew Gaynord Sitcom, tập: "The Bishop of Dibley"[116]
Colonia Lena Florian Gallenberger
Truy hồi ký ức Angela Gray Alejandro Amenábar
2017 Người đẹp và quái vật Belle Bill Condon
Vòng xoay ảo Mae Holland James Ponsoldt
2019 Những người phụ nữ bé nhỏ Margaret "Meg" March

Truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tiêu đề Vai diễn Notes
2007 Ballet Shoes Pauline Fossil Phim truyền hình
2015 The Vicar of Dibley Iris đáng kính Tập: "The Bishop of Dibley"

Video âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tiêu đề Vai Người biểu diễn
2010 "Say You Don't Want It" Người phụ nữ One Night Only

Giải thưởng và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tổ chức Giải thưởng Phim Kết quả
2002 Giải Sao Thổ Giải Sao Thổ cho diễn viên trẻ xuất sắc nhất Harry Potter và Hòn đá Phù thủy Đề cử [131]
Empire Awards Diễn viên mới xuất sắc nhất (cùng với Daniel RadcliffeRupert Grint) Đề cử [132]
Giải thưởng Nghệ sĩ trẻ Diễn xuất xuất sắc nhất trong phim truyện - Nữ diễn viên trẻ hàng đầu Đoạt giải [133]
Diễn viên xuất sắc nhất (cùng với Rupert Grint và Tom Felton) Đề cử
2005 Giải Lựa chọn của giới phê bình điện ảnh Giải BFCA cho diễn viên trẻ xuất sắc nhất Harry Potter và tên tù nhân ngục Azkaban Đề cử [134]
2006 Giải BFCA cho diễn viên trẻ xuất sắc nhất Harry Potter và Chiếc cốc lửa Đề cử
Giải thưởng Lựa chọn cho Trẻ em của Nickelodeon Úc Nữ diễn viên được yêu thích nhất Đề cử [135]
Giải Điện ảnh của MTV Giải thưởng điện ảnh MTV cho bộ đôi trên màn ảnh xuất sắc nhất Đề cử [69]
2007 Giải thưởng điện ảnh quốc gia Nữ diễn viên có màn thể hiện tốt nhất Harry Potter và Hội Phượng Hoàng Đoạt giải [136]
2008 Empire Awards Giải thưởng Empire cho nữ diễn viên xuất sắc nhất Đề cử [137]
2010 People's Choice Awards Đội được yêu thích nhất trên màn ảnh Harry Potter và Hoàng tử lai Đề cử [138]
Giải Điện ảnh của MTV Nữ diễn viên có màn trình diễn xuất sắc nhất Đề cử [139]
Teen Choice Awards Nữ diễn viên điện ảnh được lựa chọn theo thể loại: tưởng tượng Đề cử [140]
2011 Giải thưởng Liên hoan phim nghệ thuật Capri Giải thưởng diễn viên xuất sắc nhất Một tuần với kiều nữ Đoạt giải [141]
Giải thưởng Kids 'Choice Nữ diễn viên được yêu thích nhất Harry Potter và Bảo bối Tử thần – Phần 1 Đề cử [142]
People's Choice Awards Ngôi sao điện ảnh được yêu thích (Dưới 25) Đề cử [143]
Giải thưởng Empire Nữ diễn viên xuất sắc nhất Đề cử [144]
Giải thưởng điện ảnh quốc gia Màn trình diễn của năm Đề cử [145]
Giải thưởng Điện ảnh MTV Nữ diễn viên có màn thể hiện tốt nhất Đề cử [146]
Nụ hôn đẹp nhất (cùng với Daniel Radcliffe) Đề cử
Trận chiến hay nhất (cùng với Daniel Radcliffe, Rupert Grint, Arben Bajraktaraj và Rod Hunt) Đề cử
Teen Choice Awards Phim lựa chọn: Nữ diễn viên Khoa học viễn tưởng/tưởng tượng Đoạt giải [147]
Phim được lựa chọn (Choice Movie): Liplock (cùng với Daniel Radcliffe) Đoạt giải
Phim được lựa chọn cho mùa hè (Choice Summer Movie): Nữ Harry Potter và Bảo bối Tử thần – Phần 2 Đoạt giải
2012 Giải thưởng sự lựa chọn của trẻ em Nữ diễn viên điện ảnh được yêu thích nhất Đề cử [148]
People's Choice Awards Diễn viên yêu thích của bộ phim Đoạt giải [149]
Ngôi sao điện ảnh được yêu thích (Dưới 25) Đề cử
Giải Sao Thổ Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Đề cử [150]
Giải Điện ảnh MTV Nữ diễn viên có màn thể hiện tốt nhất Đề cử [151]
Nụ hôn đẹp nhất (cùng với Rupert Grint) Đề cử
Diễn viên hay nhât (cùng với Daniel Radcliffe, Rupert Grint và Tom Felton) Đoạt giải
Capri, Liên hoan phim quốc tế Hollywood Giải thưởng Carpi cho trang phục xuất sắc nhất Một tuần với kiều nữ Đoạt giải [152]
Giải thưởng San Diego Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Câu chuyện tuổi teen Đoạt giải [153]
Màn thể hiện tốt nhất của một nhóm Đoạt giải
Hội phê bình phim Boston Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Runner-up [154]
Hiệp hội phê bình phim St. Louis Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Đề cử [155]
2013 People's Choice Awards Nữ diễn viên phim truyền hình được yêu thích nhất Đoạt giải [156]
Giải Điện ảnh MTV Nữ diễn viên có màn thể hiện xuất sắc nhất Đề cử [157]
Nụ hôn đẹp nhất (cùng với Logan Lerman) Đề cử
Khoảnh khắc âm nhạc hay nhất (cùng với Logan Lerman và Ezra Miller) Đề cử
Giải tiên phong MTV Đoạt giải
Teen Choice Awards Nữ diễn viên điện ảnh được lựa chọn: Chính kịch Đoạt giải [158]
Phim lựa chọn: Liplock (cùng với Logan Lerman) Đề cử
Biểu tượng phong cách lựa chọn Đề cử
2014 People's Choice Awards Nữ diễn viên điện ảnh được yêu thích nhất Sống nốt ngày cuối Đề cử [159]
Giải thưởng hài kịch của Mỹ Nữ diễn viên phụ hài - Phim Đề cử [160]
Teen Choice Awards Nữ diễn viên điện ảnh được lựa chọn: Chính kịch Noah Đề cử [161]
Giải thưởng Britannia Nghệ sĩ Anh của năm Đoạt giải [162]
Giải thưởng thời trang Anh Trang phục Anh đẹp nhất Đoạt giải [163]
2016 Giải thưởng giới phê bình phim phụ nữ Giải thưởng diễn xuất và hoạt động xã hội Đoạt giải [164]
Nữ anh hùng hành động hay nhất Colonia Đề cử
2017 Giải thưởng Sao Mộc Nữ diễn viên quốc tế xuất sắc nhất Đề cử [165]
Giải Điện ảnh MTV Màn thể hiện tốt nhất trong phim Người đẹp và quái vật Đoạt giải [166]
Nụ hôn đẹp nhất (cùng với Dan Stevens) Đề cử
Teen Choice Awards Nữ diễn viên phim giả tưởng được lựa chọn Đoạt giải [167]
Choice Movie Ship (cùng với Dan Stevens) Đoạt giải
Choice Liplock (cùng với Dan Stevens) Đoạt giải
Nữ diễn viên phim chính kịch được lựa chọn Vòng xoay ảo Đoạt giải
2018 Giải Mâm xôi vàng Nữ diễn viên tệ nhất Đề cử [168]
Empire Awards Nữ diễn viên xuất sắc nhất Người đẹp và quái vật Đề cử [169]
Giải sự lựa chọn của trẻ em Nữ diễn viên được yêu thích nhất Đề cử [170]
Giải Sao Thổ Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử [171]
People's Choice Awards Ngôi sao phong cách năm 2018 Đề cử [172]
2019 Hiệp hội phê bình phim khu vực thủ đô Washington Dàn diễn viên xuất sắc nhất Những người phụ nữ bé nhỏ Đề cử [173]
Hội phê bình phim Boston Toàn bộ vai diễn xuất sắc nhất Đoạt giải [174]
[175]
Giới các nhà phê bình phim Florida Vai diễn xuất sắc nhất Đoạt giải [176]
[177]
Hội phê bình phim Seattle Vai diễn xuất sắc nhất Đề cử [178]
Giải thưởng phê bình Chicago Indie Vai diễn xuất sắc nhất Đề cử [179]
2020 Hiệp hội phê bình phim Austin Dàn diễn viên xuất sắc nhất Đề cử [180]
[181]
Giải thưởng Phim dành cho người trưởng thành của AARP Dàn diễn viên xuất sắc nhất Đề cử [182]
Giải Lựa chọn của giới phê bình điện ảnh Dàn diễn viên xuất sắc nhất Đề cử [183]
Hiệp hội phê bình phim Georgia Dàn diễn viên xuất sắc nhất Đoạt giải [184]
Tượng sáp Emma Watson ở bảo tàng Madame Tussauds London

Vào ngày 26 tháng 3 năm 2013,[185] Emma Watson được tạc tượng và đưa vào bảo tàng tượng sáp nổi tiếng Madame Tussauds London (Anh).[186][187] Bức tượng sáp có kích cỡ tương đương người thật của Emma mặc bộ váy Elie Saab mà cô từng mặc trong một sự kiện tại Hồng Kông vào năm 2011. Nhà thiết kế Elie Saab đã tặng chiếc váy này cho bảo tàng.[188]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Emma Watson”. Late Show with David Letterman. Tập 3145. ngày 8 tháng 7 năm 2009. CBS.
  2. ^ Walker, Tim (ngày 29 tháng 9 năm 2012). “Emma Watson: Is there Life After Hermione?”. The Independent. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2008. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  3. ^ “Check If You're a British Citizen”. United Kingdoms Government. UK Government Digital Service. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2014. Nếu bạn sinh vào hoặc sau ngày 1 tháng 1 năm 1983 và trước ngày 1 tháng 1 năm 2006, cha mẹ đã kết hôn là người Anh (không phải là người gốc) trong hầu hết các trường hợp, bạn sẽ là công dân mang quốc tịch Anh (theo dòng dõi).
  4. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2020.
  5. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2020.
  6. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2020.
  7. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2020.
  8. ^ https://www.spellchecker.net/emma%20watson#spelling Lưu trữ 2020-12-06 tại Wayback Machine Cách phiên âm tên Emma Watson
  9. ^ a b c d e “Life & Emma”. Emma Watson official website. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2010.
  10. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2020.
  11. ^ “Daniel Radcliffe, Rupert Grint and Emma Watson to Reprise Roles in the Final Two Instalments of Warner Bros. Pictures' Harry Potter Film Franchise” (Thông cáo báo chí). Cision. ngày 23 tháng 3 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2012. Truy cập 16 tháng 7 năm 2017. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  12. ^ Sager, Rebekah (ngày 21 tháng 3 năm 2017). Beauty and the Beast breaks records: Is Emma Watson now Hollywood's most sought after actress?”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  13. ^ a b Watson, Emma. “Trang web chính thức của Emma Watson”. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2007.
  14. ^ https://wealthygorilla.com/emma-watson-net-worth/ Lưu trữ 2020-03-24 tại Wayback Machine Truy cập năm 2020
  15. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2020.
  16. ^ https://news.zing.vn/emma-watson-dep-co-nao-lai-khien-nguoi-nhen-boi-roi-post1066310.html Lưu trữ 2021-01-10 tại Wayback Machine Báo điện tử Zing Lưu trữ 2020-09-09 tại Wayback Machine
  17. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2020.
  18. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2020.
  19. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2020.
  20. ^ Gould, Lara (ngày 5 tháng 8 năm 2006). “Hermione Set for BBC Role”. The Sunday Mirror. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2007.
  21. ^ “Life & Emma”. Official website. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2010.
  22. ^ “Warner Bros. Official site”. Adobe Flash. harrypotter.warnerbros.co.uk. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 4 năm 2006. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2006(click appropriate actor's image, click "Actor Bio")Quản lý CS1: postscript (liên kết)
  23. ^ Barlow, Helen. “A life after Harry Potter”. The Sydney Morning Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2006.
  24. ^ Self, Will (ngày 17 tháng 8 năm 2012). “Emma Watson, The Graduate”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2016.
  25. ^ “Q&A with Emma Watson – The Hour Publishing Company: Entertainment News”. Thehour.com. ngày 18 tháng 12 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2014.
  26. ^ a b Watson, Emma. “Emma”. Emma Watson's Official Website. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2007.
  27. ^ Reece, Damian (ngày 4 tháng 11 năm 2001). “Harry Potter drama school to float”. The Daily Telegraph. UK. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.
  28. ^ Watson, Emma. “Emma & Screen”. Official Website. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2010.
  29. ^ Muir, Kate (ngày 15 tháng 5 năm 2004). “Cast Interviews”. The Times. UK. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2008.
  30. ^ “Pupils 'sitting too many GCSEs'. BBC News. ngày 24 tháng 8 năm 2006. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2007.
  31. ^ Một năm khoảng cách, còn được gọi là một năm nghỉ phép, thường là một năm nghỉ trước hoặc sau đại học / đại học, trong đó sinh viên tham gia vào các hoạt động giáo dục và phát triển khác nhau, chẳng hạn như du lịch hoặc một số loại công việc thường xuyên.
  32. ^ Tibbetts, Graham (ngày 14 tháng 8 năm 2008). “A-levels: Harry Potter actress Emma Watson gets straight As”. The Daily Telegraph. UK. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2008.
  33. ^ a b Olly Richards (ngày 14 tháng 3 năm 2008). “Potter Producer Talks Deathly Hallows”. Empire. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2008.
  34. ^ Long, Camilla (ngày 7 tháng 12 năm 2008). “What next in life for Emma Watson”. The Times. UK. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2008.
  35. ^ Ford, James (ngày 14 tháng 7 năm 2009). “Catching up with Emma Watson”. Paste (magazine). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2009.
  36. ^ “Message from Emma”. Emma Watson Official. ngày 7 tháng 3 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2013.
  37. ^ “Harry Potter Star Emma Watson begins her year at Oxford University!”. Oxford Royale Academy. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2013.
  38. ^ “Interview”. Ellen (video posted to official YouTube channel). ngày 24 tháng 3 năm 2014. Sự kiện xảy ra vào lúc 02:12–02:58. Syndicated. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2014. Chú thích có tham số trống không rõ: |city= (trợ giúp)
  39. ^ “Emma Watson Graduates from Brown University”. The Telegraph (UK). ngày 25 tháng 5 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.
  40. ^ Adams, Char (ngày 7 tháng 8 năm 2015). “Emma Watson Reveals She Took a Weeklong Vow of Silence After 'Horrendous' Split from Matt Janney”. People. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2015.
  41. ^ Watson, Emma [@EmWatson] (ngày 9 tháng 10 năm 2015). “The week long meditation...” (Tweet). Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2015 – qua Twitter.
  42. ^ “Why Emma Watson Became a Certified Yoga Instructor”. ABC News. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2014.
  43. ^ “Emma Watson is a spiritual Universalist who believes in a higher power | Huffington Post”. huffingtonpost.com. ngày 24 tháng 3 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2016. I already, before I did Noah, had a sense that I was someone that was more spiritual, than specifically religious. I had a sense that I believed in a higher power, but that I was more of a Universalist, I see that there are these unifying tenets between so many religions.
  44. ^ Mendoza, Nadia (ngày 15 tháng 4 năm 2012). “Emma Watson and New Boyfriend Will Adamowicz Pictured Kissing...”. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2015.
  45. ^ Sheridan, Emily (ngày 24 tháng 6 năm 2013). “Emma Watson Is Reunited with Boyfriend Will Adamowicz...”. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2015.
  46. ^ Longeretta, Emily (ngày 6 tháng 1 năm 2014). “Will Adamowicz and Emma Watson Break Up”. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2015.
  47. ^ Wilson, Jess (ngày 8 tháng 9 năm 2014). “Emma Watson Gets Her Hands Dirty Lifting Boxes As She Prepares to Move In with Boyfriend Matt Janney”. Mirror Online (photo credit: vantagenews.co.uk). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2014.
  48. ^ Bamigboye, Baz (ngày 11 tháng 12 năm 2014). “Emma Watson and Rugby Star Boyfriend Break Up”. Daily Mail. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2014.
  49. ^ “Emma Watson, 27, makes a rare appearance with boyfriend William Mack Knight, 37, as they enjoy dinner date in New York”. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2017.
  50. ^ Cernik, Lizzie (ngày 6 tháng 11 năm 2019). “Self-partnered: the sudden, surprising rise of the single positivity movement”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2020 – qua www.theguardian.com.
  51. ^ Picheta, Rob (ngày 10 tháng 11 năm 2019). “Emma Watson's 'self-partnership' shows we're in a golden age of singlehood”. CNN.com. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2019. Gossip columnists immediately bemoaned the actress' self-coined phrase, while supporters on Twitter leapt to her defense.
  52. ^ CNWN Collection. “Golden Globes 2018: How to Support the Activists' Causes”. Allure. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2018.
  53. ^ Watson, Emma. “Emma”. Trang web chính thức của Emma Watson. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2007.
  54. ^ Watson, Emma. “Emma”. Emma Watson's Official Website. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2007.
  55. ^ "Harry Potter" magically shatters records”. Hollywood.com. ngày 18 tháng 11 năm 2001. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2007.
  56. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Box Office Mojo. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2007.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  57. ^ “Magic is the only word for it”. The Daily Telegraph. ngày 4 tháng 11 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2007.
  58. ^ Linder, Brian (ngày 17 tháng 11 năm 2001). “Review of Harry Potter and the Sorcerer's Stone”. IGN. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2007.
  59. ^ http://www.dantri.com.vn/giai-tri/emma-watson-nu-dien-vien-xuat-sac-nhat-nam-2007-1193138501.htm Lưu trữ 2020-04-07 tại Wayback Machine Báo Dân Trí
  60. ^ Kenneth Turan (ngày 15 tháng 11 năm 2002). “Harry Potter and the Chamber of Secrets”. Los Angeles Times. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 12 năm 2005. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2007. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  61. ^ Ellen, Barbara (ngày 14 tháng 11 năm 2002). “Film of the week”. The Times. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2007.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  62. ^ https://m.imdb.com/name/nm0914612/awards Lưu trữ 2020-04-07 tại Wayback Machine Mục Bravo Otto
  63. ^ Trout, Jonathon (ngày 1 tháng 6 năm 2004). “Daniel Radcliffe, Rupert Grint, Emma Watson”. BBC. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2007.
  64. ^ A. O. Scott (ngày 3 tháng 6 năm 2004). “Harry Potter and the Prisoner of Azkaban: Film review”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2009.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  65. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2020.
  66. ^ Dargis, Manohla (ngày 17 tháng 11 năm 2005). “The Young Wizard puts away childish things”. The New York Times. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2007.
  67. ^ Nguyên văn: "I loved all the arguing... I think it's much more realistic that they would argue and that there would be problems."
  68. ^ “Daniel Radcliffe, Emma Watson and Rupert Grint”. IGN. ngày 15 tháng 11 năm 2005. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2007.
  69. ^ a b Carroll, Larry (ngày 24 tháng 4 năm 2006). “Alba, Carell, 'Crashers,' 'Virgin' Big Nominees For MTV Movie Awards”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2007. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  70. ^ Horn, Steven (ngày 26 tháng 6 năm 2007). “Interview with Emma Watson”. IGN. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2007.
  71. ^ “New Harry Potter scene for queen”. BBC News. ngày 12 tháng 6 năm 2006. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2007.
  72. ^ “All Time worldwide opening records”. Box Office Mojo. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2007.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  73. ^ “Stardom fades, but cement lives on”. The Toronto Star. ngày 11 tháng 1 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2008.
  74. ^ “Harry Potter Will Be Played By Daniel Radcliffe In Final Two Flicks”. MTV.com. ngày 2 tháng 3 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2009.
  75. ^ “Harry Potter Will Be Played By Daniel Radcliffe in Final Two Flicks”. MTV. ngày 2 tháng 3 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2009.
  76. ^ “Will Harry Potter lose one of its stars?”. Newsweek. ngày 2 tháng 10 năm 2006. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2007. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  77. ^ “Hermione is back”. news.com.au. ngày 25 tháng 3 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2009.
  78. ^ Edidin, Peter (ngày 24 tháng 3 năm 2007). “Gang's all here”. New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2009.
  79. ^ Boshoff, Alison (ngày 12 tháng 7 năm 2007). “Worth £8m and preparing to be the face of Chanel, Emma Watson is a girl with a magic touch”. The Daily Mail. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2009.
  80. ^ “the 25 Hottest Women in the World”. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2021.The 25 Hottest Women in the World
  81. ^ Watson, Emma (ngày 28 tháng 11 năm 2007). “Ballet Shoes interviews”. Trang web chính thức của Emma Watson news. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2009.
  82. ^ Watson, Emma (ngày 22 tháng 5 năm 2008). “Bản sao đã lưu trữ”. Trang web chính thức của Emma Watson news. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2007.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  83. ^ 'HJarry Potter' sweeps into theaters 2 days early”. Yahoo!. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2009.
  84. ^ Watson, Emma (ngày 17 tháng 2 năm 2009). “Bản sao đã lưu trữ”. Trang web chính thức của Emma Watson. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2007.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  85. ^ Jack Malvern (ngày 14 tháng 3 năm 2008). “Longer spell at box office for Harry Potter”. The Times. |ngày truy cập= cần |url= (trợ giúp)
  86. ^ “Final 'Harry Potter' book will be split into two movies”. The Los Angeles Times. ngày 12 tháng 3 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2008.
  87. ^ Warman, Matt (ngày 21 tháng 12 năm 2007). “Dancing towards their dreams”. The Daily Telegraph. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2008.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  88. ^ “A Christmas treat for all the family” (Thông cáo báo chí). BBC. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2008.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  89. ^ Pielou, Adriaane (ngày 26 tháng 12 năm 2007). Ballet Shoes saw me through”. The Daily Telegraph. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2008.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  90. ^ “A Christmas treat for all the family” (Thông cáo báo chí). BBC. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2008. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  91. ^ “BBC One Transmission Details, weeks 52/1” (Thông cáo báo chí). BBC. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2008.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  92. ^ Tryhorn, Chris (ngày 27 tháng 12 năm 2006). “Viewers sold on Old Curiosity Shop”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2008.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  93. ^ Wollaston, Sam (ngày 27 tháng 12 năm 2007). “Last Night's TV”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2008.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  94. ^ Teeman, Tim (ngày 27 tháng 12 năm 2007). “Last Night's TV”. The Times. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2008.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  95. ^ Walton, James (ngày 27 tháng 12 năm 2007). “Ballet Shoes”. The Daily Telegraph. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2008.
  96. ^ “Say You Don't Want It”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 8 năm 2010.
  97. ^ “Emma in My Week With Marilyn”. emma-watson.net. ngày 8 tháng 10 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2010.
  98. ^ “Emma Watson Joins My Week with Marilyn”. movieweb.net. ngày 24 tháng 9 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2010.
  99. ^ McNary, Dave (ngày 19 tháng 5 năm 2010). “Watson, Lerman in talks for 'Perks'. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2010.
  100. ^ Mark Olsen (ngày 1 tháng 11 năm 2012). 'The Perks of Being a Wallflower' steadily blossoms”. Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2020.
  101. ^ Chú thích: Thuật ngữ "thả bom F" thường dùng để chỉ việc sử dụng từ "khốn kiếp" trong một bối cảnh bất ngờ, chẳng hạn như phương tiện truyền thông công cộng, một cách chơi chữ với biệt danh cho bom hydro ("bom H") và giá trị sốc mà sử dụng từ "chết tiệt" trong diễn ngôn mang. Thuật ngữ này được báo cáo lần đầu tiên trên một tờ báo (Newsday) vào năm 1988 khi vận đọng viên bóng chày Hall of Fame Gary Carter sử dụng nó. Vào năm 2012, lần đầu tiên nó đã được liệt kê trong Từ điển đại học Merriam-Webster
  102. ^ Puig, Claudia (ngày 11 tháng 6 năm 2013). “This Is the End – and It's Hilarious”. USA Today. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2014. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  103. ^ Lombardi, Ken (ngày 29 tháng 5 năm 2013). This Is the End: Emma Watson Takes on the Boys in a New Red-Band TV Spot”. CBS News. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2014. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  104. ^ Inside Look: This Is the End with Seth Rogen and Emma Watson. YouTube (Movieline official). ngày 11 tháng 6 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2014. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  105. ^ “Emma Watson Gets Biblical With Darren Aronofsky's 'Noah'. indiewire.com. ngày 7 tháng 6 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2012.
  106. ^ Kroll, Justin (ngày 20 tháng 2 năm 2017). “Cinderella's Glass Slipper Doesn't Fit Emma Watson”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2013. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  107. ^ Cheney, Alexandra (ngày 30 tháng 4 năm 2013). 'Downton Abbey' Star Is New Cinderella”. The Wall Street Journal. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2020.
  108. ^ “Woman of the Year: Emma Watson”. ngày 15 tháng 10 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2020. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  109. ^ “Emma Watson and Cumberbatch Top 'Sexiest' Stars List”. BBC. ngày 2 tháng 11 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2014. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  110. ^ King, Susan (ngày 31 tháng 10 năm 2014). “At BAFTA Event, Emma Watson Dedicates Award to Her Long Dead Hamster”. Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2014. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  111. ^ “Emma Watson, Daniel Bruhl to Star in Thriller 'Colonia'. Variety. ngày 29 tháng 9 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2015.
  112. ^ “Emma Watson starring with Ethan Hawke for New Thriller Movie”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 2 năm 2014.
  113. ^ Earp, Catherine (ngày 5 tháng 2 năm 2014). “Emma Watson joins Ethan Hawke film Regression”. Digital Spy. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2014. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  114. ^ “Colonia (2016)”. Rotten Tomatoes. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2017.
  115. ^ “Regression (2016)”. Rotten Tomatoes. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2017.
  116. ^ a b The Vicar of Dibley – Comic Relief Special: The Bishop of Dibley”. British Comedy Guide. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2015.
  117. ^ Hooks, Bell (ngày 18 tháng 2 năm 2016). “In Conversation with Bell Hooks and Emma Watson”. PAPER. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2016.
  118. ^ Kit, Borys (ngày 4 tháng 3 năm 2015). “Disney's Beauty and the Beast Casting Dan Stevens as the Beast”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2015. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  119. ^ Sager, Rebekah (ngày 21 tháng 3 năm 2017). Beauty and the Beast breaks records: Is Emma Watson now Hollywood's most sought after actress?”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  120. ^ “Emma Watson to star in The Circle opposite Tom Hanks”. Entertainment Weekly's EW.com. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2015.
  121. ^ Spencer Perry (ngày 24 tháng 8 năm 2018). “Emma Watson Replacing Emma Stone in Sony's Little Women Movie”. Comingsoon.net. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2018.
  122. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2020.
  123. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. VnExpress. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2020. Đã định rõ hơn một tham số trong |tựa đề=|title= (trợ giúp)
  124. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Zing News. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2020. Đã định rõ hơn một tham số trong |tựa đề=|title= (trợ giúp)
  125. ^ Thuỳ Dung. “Bản sao đã lưu trữ”. Elle.vn. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2020. Đã định rõ hơn một tham số trong |tựa đề=|title= (trợ giúp)
  126. ^ https://www.youtube.com/watch?v=GxA3Q2vvh_c Lưu trữ 2021-01-10 tại Wayback Machine Emma Watson và bài phát biểu về bình đẳng giới - YouTube
  127. ^ “Emma Watson announces UN Women Goodwill Ambassador role”. United Kingdom: BBC Newsbeat. ngày 8 tháng 7 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2014. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  128. ^ “Emma Watson named UN Women Goodwill Ambassador”. The Independent. ngày 8 tháng 7 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2020. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  129. ^ Vân Anh. “Emma Watson và hành trình cống hiến cho nghệ thuật”. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2020.
  130. ^ https://news.zing.vn/emma-watson-dep-co-nao-lai-khien-nguoi-nhen-boi-roi-post1066310.html Lưu trữ 2021-01-10 tại Wayback Machine Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2020
  131. ^ “Nominees for 28th Annual Saturn Awards”. United Press International. ngày 14 tháng 3 năm 2002. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2017.
  132. ^ “Best Debut”. Empireonline.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2003. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2015.
  133. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên YAA
  134. ^ “Emma Watson”. Microsoft.com. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2017.
  135. ^ “Prepare to be slimed...as the Nickelodeon Kids' Choice Awards nominees are announced!” (PDF). sydentcent.com.au. ngày 10 tháng 8 năm 2006. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2020. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  136. ^ “National Movie Awards 2007 winners”. BBC News. ngày 29 tháng 9 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2017. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  137. ^ “Best Actress”. Empire. 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2011.
  138. ^ “Twilight Leads the People's Choice Awards Nominations”. PopSugar. ngày 10 tháng 11 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2017.
  139. ^ “2010 MTV Movie Awards: Complete Winners List”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2017. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  140. ^ Soll, Lindsay (ngày 14 tháng 6 năm 2010). “Teen Choice Awards 2010: First Round of Nominees Announced”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2017. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  141. ^ “Shining cast of 'My Week with Marilyn' bestowed with 2011 Capri ensemble award”. Capri, Hollywood International Film Festival. Capri World. ngày 8 tháng 12 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2011.
  142. ^ “Kids' Choice Awards Nominees 2011”. Digital Spy. ngày 7 tháng 4 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2020.
  143. ^ “Twilight Dominates People's Choice Nominations Once Again”. PopSugar. ngày 9 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2017.
  144. ^ “Jameson Empire Awards Announce 2011 Nominees” (Thông cáo báo chí). ngày 24 tháng 2 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2017. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  145. ^ “Voting underway for 2011 National Movie Awards”. UK Cinema Association. ngày 4 tháng 4 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2017.
  146. ^ “MTV Movie Awards 2011 nominees”. Entertainment Weekly. ngày 3 tháng 5 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2017.
  147. ^ “Blake Lively Wins Choice TV Drama Actress The Teen Choice Awards! Here Are More Winners!”. Hollywood Life. ngày 7 tháng 8 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2016.
  148. ^ “Here's the 2012 Kid's Choice Nominees!”. Seventeen Magazine. ngày 17 tháng 2 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2016.
  149. ^ “Nominations Announced for the 'People's Choice Awards 2012'. Tvbythenumbers.zap2it.com. ngày 8 tháng 11 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2014.
  150. ^ “Saturn Award Nominations Announced; HUGO and HARRY POTTER Lead with 10 Nominations Each”. Collider. ngày 29 tháng 2 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2017.
  151. ^ “MTV Movie Awards 2012: The winners in full”. Digital Spy. ngày 4 tháng 6 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2017.
  152. ^ “Shining cast of "My Week with Marilyn" bestowed with 2011 Capri ensemble award”. Capri, Hollywood International Film Festival. Capri World. ngày 8 tháng 12 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2011.
  153. ^ Argo Leads San Diego Critics' Awards; Michelle Williams Surprise Winner For Waltz. Indiewire. ngày 23 tháng 5 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2020. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  154. ^ "Zero Dark Thirty," Day-Lewis and Riva Top Boston Society of Film Critics Awards”. Indiewire. ngày 9 tháng 12 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2020. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  155. ^ Tapley, Kristopher (ngày 11 tháng 12 năm 2012). “Django Unchained lands eight St. Louis film critics nods”. HitFix. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2015.
  156. ^ “Nominees Announced for the 'People's Choice Awards 2013'. Tvbythenumbers.zap2it.com. ngày 15 tháng 11 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2014.
  157. ^ “2013 MTV Movie Awards winners list”. Entertainment Weekly. ngày 4 tháng 4 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2017.
  158. ^ “Complete list of Teen Choice 2013 Awards winners”. Los Angeles Times. ngày 11 tháng 8 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 4 năm 2014.
  159. ^ “People's Choice Awards: Fan Favorites in Movies, Music & TV”. PeoplesChoice.com. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2014.
  160. ^ “Amy Poehler, Seth Rogen win American Comedy Awards”. Entertainment Weekly. ngày 9 tháng 5 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2014.
  161. ^ “Teen Choice Awards Nominees For 2014 Announced”. The Huffington Post. ngày 18 tháng 6 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2017. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  162. ^ “Robert Downey, Jr. & Judi Dench Among BAFTA LA Britannia Awards Honorees”. Deadline Hollywood. ngày 18 tháng 9 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2014.
  163. ^ Sowray, Bibby (ngày 1 tháng 12 năm 2014). “Emma Watson Wins Award for Best British Style at Fashion Awards”. Telegraph Media Group. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2014.
  164. ^ “The Women Film Critics Circle Nomination Award Picks For 2016”. NewsBlaze. ngày 12 tháng 12 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2018.
  165. ^ “Bildergalerie JUPITER AWARD Gewinner”. Jupiter-Filmpreis Online. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2018.
  166. ^ Knapp, JD (ngày 7 tháng 5 năm 2017). “2017 MTV Movie and TV Awards: Complete Winners List”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2017.
  167. ^ Ramos, Dino-Ray (ngày 13 tháng 8 năm 2017). “Teen Choice Awards 2017 Winners: 'Wonder Woman', 'Beauty And The Beast', 'Riverdale' Among Honorees”. Deadline Hollywood. enske Business Media, LLC. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2017.
  168. ^ Hooton, Christopher (ngày 22 tháng 1 năm 2018). “2018 Razzie awards: Emma Watson and Jennifer Lawrence among nominees for disservices to film”. The Independent. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2018.
  169. ^ Ruby, Jennifer (ngày 19 tháng 1 năm 2018). “Empire Film Awards 2018: The Last Jedi leads the pack with nine nominations including Best Actress for Daisy Ridley”. London Evening Standard. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2018.
  170. ^ Pedersen, Erik (ngày 26 tháng 2 năm 2018). “Nickelodeon Unveils 2018 Kids' Choice Awards Nominations”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2018.
  171. ^ McNary, Dave (ngày 15 tháng 3 năm 2018). 'Black Panther,' 'Walking Dead' Rule Saturn Awards Nominations”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2018.
  172. ^ USA TODAY Life staff (ngày 24 tháng 9 năm 2018). “People's Choice Awards 2018: The nominees”. USA Today (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2018.
  173. ^ “The 2019 Washington DC Area Film Critics Association (WAFCA) Nominations”. The Washington DC Area Film Critics Association (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2019.
  174. ^ “Current Winners – 2019 Awards”. Boston Society of Film Critics (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2020.
  175. ^ “The 2019 Boston Society Of Film Critics (BSFC) Winners”. Next Best Picture (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2020.
  176. ^ “Marriage Story leads 2019 Florida Film Critics Awards Nominations”. Florida Film Critics Circle (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2019.
  177. ^ “Marriage Story and Portrait of a Lady on Fire tie for the most wins”. Florida Film Critics Circle (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2019.
  178. ^ "The Irishman" Leads the 2019 Seattle Film Critics Society Nominations”. Seattle Film Critics Society. ngày 9 tháng 12 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2019.
  179. ^ 'Little Women' Tops Chicago Indie Critics Nominations”. Deadline Hollywood (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2019.
  180. ^ Stoddard, Elizabeth (ngày 30 tháng 12 năm 2019). “2019 AFCA Award Nominations”. Austin Film Critics Association (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2019.
  181. ^ Stoddard, Elizabeth (ngày 7 tháng 1 năm 2020). “2019 Awards”. Austin Film Critics Association (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2019.
  182. ^ Appelo, Tim (ngày 13 tháng 1 năm 2020). “2019 Movies for Grownups Award Winners”. AARP. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2020.
  183. ^ Pete Hammond (ngày 9 tháng 12 năm 2019). 'The Irishman', 'Once Upon A Time In Hollywood' Lead Critics' Choice Nominations; Netflix Dominates With 61 Noms In Movies And TV”. Deadline Hollywood (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2019.
  184. ^ “2019 Awards”. Georgia Film Critics Association (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2020.
  185. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2020.
  186. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2020.
  187. ^ https://m.vov.vn/van-hoa/dien-anh/emma-watson-duoc-dung-tuong-sap-tai-bao-tang-madame-tussauds-254940.vov[liên kết hỏng]
  188. ^ http://thegioivanhoa.com.vn/elie-saab-thiet-ke-vay-rieng-cho-tuong-sap-emma-watson/[liên kết hỏng]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Violet Evergarden Gaiden: Eien to Jidou Shuki Ningyou Vietsub
Violet Evergarden Gaiden: Eien to Jidou Shuki Ningyou Vietsub
Violet Evergarden Ngoại Truyện: Sự vĩnh cửu và Hình nhân Ghi chép Tự động
Tổng hợp tất cả các nhóm Sub Anime ở Việt Nam
Tổng hợp tất cả các nhóm Sub Anime ở Việt Nam
Tổng hợp tất cả các nhóm sub ở Việt Nam
Haibara Ai -
Haibara Ai - "trà xanh" mới nổi hay sự dắt mũi của các page C-biz và “Văn hóa” chửi hùa
Haibara Ai - "trà xanh" mới nổi hay sự dắt mũi của các page C-biz và “Văn hóa” chửi hùa của một bộ phận fan và non-fan Thám tử lừng danh Conan.
Review Doctor John - “Vì là con người, nên nỗi đau là có thật”
Review Doctor John - “Vì là con người, nên nỗi đau là có thật”
“Doctor John” là bộ phim xoay quanh nỗi đau, mất mát và cái chết. Một bác sĩ mắc chứng CIPA và không thể cảm nhận được đau đớn nhưng lại là người làm công việc giảm đau cho người khác