Quảng Ninh Quận vương 廣寧郡王 | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hoàng tử nhà Nguyễn | |||||||||||||
Thông tin chung | |||||||||||||
Sinh | 17 tháng 8 năm 1825 | ||||||||||||
Mất | 23 tháng 5 năm 1847 (22 tuổi) | ||||||||||||
An táng | Hương Thủy, Thừa Thiên - Huế | ||||||||||||
Hậu duệ | 3 con trai 2 con gái | ||||||||||||
| |||||||||||||
Thân phụ | Nguyễn Thánh Tổ Minh Mạng | ||||||||||||
Thân mẫu | Huệ tần Trần Thị Huân |
Nguyễn Phúc Miên Mật[1] (chữ Hán: 阮福綿宓, 17 tháng 8 năm 1825 – 23 tháng 5 năm 1847), hiệu là Vân Đình (芸亭)[2], tước phong Quảng Ninh Quận vương (廣寧郡王), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Hoàng tử Miên Mật sinh ngày 4 tháng 7 (âm lịch) năm Ất Dậu (1825), là con trai thứ 30 của vua Minh Mạng, mẹ là Tứ giai Huệ tần Trần Thị Huân[3]. Ông là người con thứ ba của bà Huệ tần. Lúc trẻ hoàng tử thông minh đĩnh ngộ, vốn thích học viết khi mới trưởng thành, ra học thầy dạy bên ngoài, không sách gì là không đọc, vua rất yêu quý[2].
Năm Minh Mạng thứ 20 (1839), vua cho triệu 7 hoàng tử tuổi còn nhỏ chưa được phong tước vào chầu, trong đó có Miên Mật, sai làm thơ ngay trước mặt để vua xem học lực[4]. Miên Mật và các hoàng tử Miên Tể, Miên Vũ, Miên Thủ lời thơ thông ý đều được gia thưởng; Miên Tích làm thơ chưa hợp cách, cũng châm chước cho qua; riêng Miên Thần và Miên Trữ đều bỏ giấy trắng, bị phạt 3 tháng lương[4].
Năm Minh Mạng thứ 21 (1840), ông được phong làm Ninh Quốc công (寧國公)[5]. Cùng năm đó, vua cho đúc các con thú bằng vàng để ban thưởng cho các hoàng thân anh em, các hoàng tử công và hoàng tử chưa được phong tước. Quốc công Miên Mật được ban cho một con hổ bằng vàng nặng 4 lạng 6 đồng cân[6]. Vua còn ban thuyền cho các hoàng tử đã được phong tước là quốc công Miên Mật, Tùng Quốc công Miên Thẩm, Hoà Quốc công Miên Quân, Hàm Thuận công Miên Thủ và Lạc Hoá Quận công Miên Vũ để theo hầu[7].
Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), thấy hoàng đệ Miên Mật học hành tấn tới, tính tình ôn hòa, cung kính nên ông được tấn phong làm Quảng Ninh công (廣寧公), cùng với hoàng đệ Miên Bảo được gia phong làm Tương An công[8].
Năm Thiệu Trị thứ 7 (1847), ngày 10 tháng 4 (âm lịch) năm Đinh Mùi, thân công Miên Mật qua đời, hưởng dương 23 tuổi[9]. Nghe tin ông mất, vua thương tiếc, nghỉ chầu 3 ngày, cho 3000 quan tiền lo việc tang, sai quan đến tế, ban thụy là Đôn Hòa (敦和)[2][10].
Năm 1878, nhân tiết Ngũ tuần đại khánh (lễ mừng thọ 50 tuổi của vua) của Tự Đức, vua cho là ông và Tương An công Miên Bảo đều có học hạnh, đều là người em yêu quý của tiên triều (tức vua Thiệu Trị), chẳng may mất sớm, chưa kịp ban cho ơn huệ, xuống dụ truy phong cả hai tước Quận vương[2].
Quận vương Miên Mật cung cẩn hiền hậu. Lúc sinh thời, ông có dựng thư viện Tự Hương để làm nơi đọc sách trong khi nhàn rỗi, họp các văn nhân hay thơ cùng đến để vịnh. Trước tác của ông để lại có tập Hân Nhiên thi tập[2]. Lúc vua Tự Đức còn ở tiềm để, cùng học với ông, mỗi khi vào trực trong cung cấm là cùng nhau xướng họa. Khi Tự Đức lên ngôi (1848), thấy bản thảo văn thơ của ông để lại ở các, đọc thấy cảm động, liền đề vào tập thơ ấy rằng[9]:
Về sau em cùng mẹ với ông là An Quốc công Miên Ngung tìm được bản thảo của ông để lại đem ra khắc sơn nhưng chưa xong thì đã qua đời, nói với người anh thứ mười là Tùng Thiện vương Miên Thẩm thay mình tiếp tục làm. Miên Thẩm liền dâng lên vua nói rằng[2]:
Năm 1855, Tự Đức có dụ rằng:"Cố Quảng Ninh Công Miên Mật, giữ tính kính hòa chín chắn, vui điều thiện thích văn chương. Khi trẫm còn ở tiềm để, thường cùng nhau ngồi họa một chiếu. Cũng có ích về giúp việc nhân. Tuổi thọ trời cho có ít không được trông thấy ngày nay, lòng trẫm vẫn thường nhớ đến. Bèn thân chế bài thơ, sai quan đến từ đường làm lễ tế và đem lời dụ, bài thơ tuyên đọc để tỏ ra ý nêu khen người hiếm giỏi"[2].
Thơ rằng[2]:
Dịch nghĩa:"Sao dời vật đổi đã bao năm, nhà cũ cỏ mọc rậm rạp trông mà buồn, bản thảo tập tơ đã có anh sửa chữa hộ, tiếng thơm về văn chương không có con để nối nghiệp, Đông Bình Vương vui làm điều thiện, câu nói ấy còn đó, Hán Chương Đế tôn quý người thân, lễ ý ấy nên bắt chước, mới đây Tùng Thiện, Tuy Lý đều được thấm nhuần ơn trạch cả, ai nên quên mưu kế của Nguyên Dụ tiến người hiền".
Quận vương Miên Mật có ba con trai và hai con gái nhưng đều chết sớm cả[2]. Ông được ban cho bộ Sước (辵) để đặt tên cho các con cháu trong phòng[16]. Mộ của ông được táng tại Dương Xuân (hiện nay tọa lạc trên đường Vũ Ngọc Phan, phường Thủy Xuân, Huế). Năm 1885, ông được hợp thờ ở đền Thân Huân[9].
Phủ thiếp Nguyên cơ (chánh thất) của ông là bà Trương Thị Bàn, con gái của đại thần Trương Đăng Quế, sau tái giá với Thượng thư bộ Hộ là Hoàng Văn Tuyển.