Nguyễn Sỹ Sách (20 tháng 1 năm 1907[1] - 19 tháng 12 năm 1929), bí danh Phong[2], là nhà cách mạng Việt Nam.
Ông có hiệu Tùng Thúc, sinh tại thôn Tú Viên, nay thuộc xóm 2, Thanh Lương, Thanh Chương, Nghệ An. Ông là con trai duy nhất trong một gia đình nho học, nên thuở nhỏ đã được học chữ Hán. Năm 11 tuổi, ông thi vào tiểu học ở trường huyện. Lớn lên, ông học trường Quốc học Vinh, cùng với các bạn như Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai, Nguyễn Xiển, Phạm Thiều... Cuối lớp Đệ tứ, ông dự thi bậc Thành chung khóa đầu tiên của Quốc học Vinh và đỗ cao. Tuy nhiên do chưa đủ tuổi chính thức (dưới 18 tuổi), nên ông không vào được vào học Cao đẳng Sư phạm. Nhờ sự giúp đỡ của ông giám đốc trường Quốc học, Nguyễn Sỹ Sách đã trở thành thầy giáo của trường Tiểu học Hà Tĩnh khi mới chỉ 17 tuổi[3].
Năm 1925, ông tham gia vào tổ chức Hội Phục Việt mới thành lập (14 tháng 7 năm 1925). Tháng 3 năm 1926, ông là một trong những yếu nhân tham gia lễ truy điệu Phan Châu Trinh và đòi thực dân Pháp thả Phan Bội Châu. Thời gian này, song song với hoạt động cho tổ chức, ông còn tận tụy, dành nhiều thời gian cho công việc dạy học[4], đồng thời tuyên truyền cách mạng cho những học sinh của mình[2]. Chính vì thế, ông bị nhà cầm quyền để ý, dẫn đến việc bị chuyển vào làm phụ giáo tại trường Pháp Việt, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Mấy tháng sau đó, ông trở thành nhân viên ngành hỏa xa Đông Dương nhưng cũng chỉ làm trong thời gian ngắn[5]. Cũng từ đây, hoạt động cách mạng của ông trở nên mạo hiểm.
Hà Huy Tập, trích trong cuốn sách của Quinn-Judge, đã viết: "Đồng chí Nguyễn Sỹ Sách, một ủy viên liên lạc của Ủy ban Trung ương Việt Nam Cách mạng Đảng (Tân Việt), cũng là một thành viên Kì bộ Trung Kỳ của Hội Thanh niên (Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên)"[6]. Tổng cộng Nguyễn Sỹ Sách đã ba lần vượt biên sang Trung Quốc. Tháng 1 năm 1928, ông từ Trung Quốc về Nghệ Tĩnh, mang theo chương trình và chỉ thị của Tổng bộ Hội Thanh niên ở hải ngoại về việc thành lập một tỉnh bộ của Hội tại địa phương. Tháng 6 năm 1928, ông trở thành một trong ba ủy viên Ban chấp hành Kỳ bộ Trung Kỳ, cùng với Vương Thúc Oánh và Nguyễn Thiệu[7]. Ông bị bắt vào tháng 11 năm 1928, sau đó bị giải từ nhà lao Vinh đến lao Thừa phủ (Huế), tuy nhiên do không đủ chứng cứ nên được thả ra[8].Tháng 5 năm 1929, ông là một trong ba đại biểu Trung Kỳ tham dự Đại hội lần thứ nhất của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Hồng Kông[9], sau đó được bầu vào Ban chấp hành Tổng bộ của Hội[10].
Tháng 7 năm 1929, toàn bộ thành viên của Ban chấp hành Kỳ bộ Trung Kỳ bị bắt, bao gồm cả Nguyễn Sỹ Sách mới trở về từ Hội Thanh niên, lẫn Trần Văn Cung và Vương Thúc Oánh[11]. Ngày 10 tháng 10 năm 1929, trong phiên tòa mở tại Vinh, ông bị kết án khổ sai chung thân theo bản án số 110 do Tổng đốc Nghệ An Bửu Thạch ký. Ông bị đưa về đày tại nhà ngục Lao Bảo (Quảng Trị). Ngày 19 tháng 12 năm 1929, trong lúc cố gắng vượt ngục, Nguyễn Sỹ Sách đã bị bắn vào lưng và qua đời ở tuổi 21[12].
Người bạn học của ông, Tôn Quang Phiệt, bấy giờ là lãnh tụ Đảng Tân Việt, đã làm câu đối điếu ông:
Ông mất để lại một người vợ tên Nguyễn Thị Hồng, khi đó mới 19 tuổi (Nguyễn Sỹ Sách kết hôn năm 15 tuổi, khi đó bà Hồng mới 13), và một người con gái tên Lan Hương[8]. Hiện nay, tên ông được đặt cho một ngôi trường tại Thanh Chương quê ông, cũng như hai con đường tại thành phố Vinh và quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ông có một người cháu là Nguyễn Sỹ Dũng, tiến sĩ giáo dục, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Việt Nam, nhà phản biện xã hội hàng đầu ở Việt Nam.[14]