Tàu khu trục Nhật Bản Numakaze
| |
Lịch sử | |
---|---|
Nhật Bản | |
Đặt hàng | 1918 |
Xưởng đóng tàu | Xưởng hải quân Maizuru |
Đặt lườn | 10 tháng 8 năm 1921 |
Hạ thủy | 25 tháng 2 năm 1922 |
Hoạt động | 24 tháng 7 năm 1922 |
Xóa đăng bạ | 5 tháng 2 năm 1944 |
Số phận | Bị tàu ngầm Mỹ đánh chìm tại Okinawa, ngày 18 tháng 12 năm 1943 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Lớp tàu khu trục Minekaze cải tiến |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài |
|
Sườn ngang | 9 m (29 ft 6 in) |
Mớn nước | 2,9 m (9 ft 6 in) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 72 km/h (39 knot) |
Tầm xa |
|
Thủy thủ đoàn | 148 |
Vũ khí |
|
Numakaze (tiếng Nhật: 沼風) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo ngay sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc thứ ba cũng là chiếc cuối cùng của lớp phụ Nokaze bao gồm ba chiếc được cải tiến dựa trên lớp Minekaze. Chúng là những tàu khu trục hàng đầu của Hải quân Nhật trong những năm 1930, nhưng đã bị xem là lạc hậu vào lúc nổ ra Chiến tranh Thái Bình Dương, Numakaze hầu như chỉ đảm trách vai trò tuần tra và hộ tống cho đến khi bị tàu ngầm Mỹ Grayback đánh chìm tại Okinawa vào ngày 18 tháng 12 năm 1943.
Việc chế tạo lớp tàu khu trục kích thước lớn Minekaze được chấp thuận như một phần trong Chương trình Hạm đội 8-4 của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong giai đoạn năm tài chính 1917[1][2] với chín chiếc, và năm tài chính 1918 với thêm sáu chiếc bổ sung. Tuy nhiên, ba chiếc cuối cùng trong năm tài chính 1918 được chế tạo với một thiết kế cải tiến có kiểu dáng bên ngoài khác biệt đến mức nhiều tác giả xếp chúng thành một lớp phụ riêng biệt.[3]
Numakaze, chiếc thứ ba trong lớp phụ Nokaze, được chế tạo tại Xưởng hải quân Maizuru. Nó được đặt lườn vào ngày 10 tháng 8 năm 1921; được hạ thủy vào ngày 25 tháng 2 năm 1922; và được đưa ra hoạt động vào ngày 24 tháng 7 năm 1922.[4]
Sau khi hoàn tất, Numakaze được điều về Quân khu Hải quân Yokosuka, nơi nó cùng với các tàu khu trục chị em Nokaze, Namikaze và Kamikaze (soái hạm) được tập trung để hình thành nên Hải đội Khu trục 1 (第一駆逐艦). Trong những năm 1938-1939, hải đội này được phân công tuần tra tại khu vực bờ biển Bắc và Trung của Trung Quốc nhằm hỗ trợ cho những nỗ lực của quân Nhật trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật.[5]
Vào lúc xảy ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng, Numakaze đặt căn cứ tại Quân khu Bảo vệ Ōminato về phía Bắc Nhật Bản, đảm trách nhiệm vụ tuần tra vùng biển ngoài khơi đảo Hokkaidō và quần đảo Kurile.
Trong khi diễn ra trận Midway vào tháng 5 năm 1942, Namikaze được phân về lực lượng dự trữ dành cho Chiến dịch quần đảo Aleut, nhưng đã không rời khỏi vùng biển nội địa Nhật Bản. Sau đó nó quay lại công tác tuần tra ngoài khơi Ōminato cho đến tháng 7 năm 1943, nơi mà khu vực tuần tra được mở rộng bao gồm hầu hết đảo Honshū về phía Nam đến tận vịnh Ise. Vào tháng 7, nó tạm thời được điều về Hạm đội 5 Hải quân Đế quốc Nhật Bản hỗ trợ cho việc triệt thoái lực lượng Nhật Bản khỏi Kiska. Nó bị hư hại trong một vụ va chạm với tàu khu trục Shirakumo. Numakaze tiếp tục đặt căn cứ tại Ōminato đảm trách tuần tra và hộ tống vận tải tại vùng biển phía Bắc cho đến tháng 12 năm 1943.
Vào tháng 12 năm 1943, Numakaze được điều về Hạm đội Liên Hợp, khởi hành vào ngày 5 tháng 12 từ Moji như một đơn vị của Hải đội Hộ tống Tàu nổi 1 bảo vệ một đoàn tàu vận tải đi đến Đài Loan. Tuy nhiên, vào ngày 18 tháng 12 năm 1943, Numakaze trúng phải ngư lôi phóng từ tàu ngầm Mỹ USS Grayback (SS-208) về phía Đông Đông Bắc Naha, Okinawa ở tọa độ 26°29′B 128°26′Đ / 26,483°B 128,433°Đ. Chiếc tàu khu trục bị chìm với tổn thất toàn bộ thủy thủ đoàn, trong số đó có cả Thuyền trưởng, Đại tá Hải quân Watanabe Yasumasa, kiêm nhiệm Tư lệnh Hải đội Khu trục 1.[6]
Numakaze được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 5 tháng 2 năm 1944.[7]