Olympic Hóa học Quốc tế

Olympic Hóa học Quốc tế (tiếng Anh: International Chemistry Olympiad, viết tắt là IChO) là một kỳ thi học thuật quốc tế hóa học hàng năm dành cho các học sinh trung học phổ thông. Đây là một trong các kỳ thi Olympic Khoa học Quốc tế.

IChO lần đầu tiên được tổ chức ở Praha, Tiệp Khắc, vào năm 1968. Từ đó kỳ thi được tổ chức hàng năm trừ năm 1971. Các đoàn đại biểu tham dự lần đầu tiên hầu hết là các nước thuộc khối phía Đông cũ. Cho đến năm 1980, Olympic Hóa học Quốc tế lần thứ 12 được tổ chức bên ngoài khối, ở Áo.

Cấu trúc và các luật lệ của kỳ thi

[sửa | sửa mã nguồn]
Một huy chương Olympic Hóa học Quốc tế

Thành phần đoàn dự thi mỗi nước

[sửa | sửa mã nguồn]

Mỗi đoàn đại biểu gồm tối đa bốn học sinh và hai cố vấn (một người trong số họ được chỉ định làm lãnh đạo đoàn hoặc "người đỡ đầu"). Một phái đoàn cũng có thể bao gồm một số ít khách mời và quan sát viên khoa học. Học sinh phải dưới 20 tuổi và không được ghi danh là sinh viên chính quy trong các tổ chức giáo dục sau trung học. Trung tâm Thông tin Quốc tế của Olympic Hóa học quốc tế có trụ sở tại Bratislava, Slovakia.

Các nước muốn tham gia IChO phải gửi các quan sát viên đến hai kỳ Olympic liên tiếp trước khi học sinh nước họ có thể tham gia vào sự kiện này. Tổng cộng có 68 quốc gia đã tham gia vào IChO lần thứ 38 ở Hàn Quốc năm 2006: 67 nước tham gia cùng với 1 nước quan sát viên.

Nội dung thi, ban giám khảo, và chấm điểm

[sửa | sửa mã nguồn]

kỳ thi bao gồm hai phần thi là một bài kiểm tra lý thuyết và một bài kiểm tra thực hành. Cả hai phần đều có thời lượng lên đến 5 giờ, và được tổ chức vào những ngày riêng biệt. Bài kiểm tra thực hành thường diễn ra trước khi kiểm tra lý thuyết. Việc kiểm tra lý thuyết có giá trị là 60 điểm và kiểm tra thực hành có giá trị là 40 điểm. Mỗi bài kiểm tra được đánh giá độc lập, tổng điểm các phần thi là kết quả chung cuộc của thí sinh. Một bồi thẩm đoàn khoa học, được thành lập bởi nước chủ nhà, sẽ đề nghị các đề thi. Ban giám khảo quốc tế, trong đó bao gồm 2 cố vấn từ mỗi nước tham gia, sẽ thảo luận về những đề thi và dịch chúng sang ngôn ngữ mẹ đẻ của học sinh nước họ.

Dịch đề thi

[sửa | sửa mã nguồn]

Học sinh sẽ nhận được đề thi đã được dịch sang tiếng của từng nước. Nhiệm vụ của cố vấn là dịch đề thi từ tiếng Anh trước khi chúng được trao cho thí sinh. Sau khi kỳ thi được tổ chức và đánh giá bởi một ủy ban do nước chủ nhà chỉ định và trước khi trao giải, các cố vấn sẽ thảo luận về việc thẩm định các bài thi với các giám khảo của Ủy ban để đảm bảo công bằng trong việc thẩm định của họ. Bởi vì các cố vấn xem xét lại đề thi trước khi chúng được trao cho thí sinh, nên trước khi hoàn tất cả hai phần thi, bất kỳ thông tin liên lạc nào giữa các cố vấn và học sinh đều bị nghiêm cấm. Các học sinh được yêu cầu phải gửi lại nhà tổ chức tất cả điện thoại di độngmáy tính xách tay họ có.

Chương trình thi

[sửa | sửa mã nguồn]

Nội dung thi bao gồm nhiều môn thuộc các lĩnh vực khác nhau trong hóa học, gồm hóa hữu cơ, hóa vô cơ, hóa lý, hóa phân tích, hóa sinhquang phổ học. Mặc dù đa số các môn này đã được bao gồm trong hầu hết các chương trình hóa học trung học, nhưng phần lớn, chúng được đánh giá ở mức độ sâu hơn và nhiều môn có thể đòi hỏi trình độ kiến thức và sự hiểu biết tương đương giáo dục sau trung học. Ngoài ra, hàng năm nước chủ nhà IChO sẽ đưa ra một tập hợp các bài toán chuẩn bị cho Olympic, trước khi kỳ thi này diễn ra. Những bài toán chuẩn bị này bao trùm các chủ đề chuyên biệt và có yêu cầu sâu hơn nhiều so với chương trình giáo dục sau trung học thông thường. Việc chuẩn bị cho Olympic Hóa học quốc tế đòi hỏi trình độ cao về sự hiểu biết và sự quan tâm đến hóa học, cũng như khả năng xuất sắc để có thể liên kết các chuyên ngành hóa học với nhau, và với thế giới thực tế.

Huy chương Vàng Olympic Hóa học quốc tế lần thứ 40

Giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Tất cả thí sinh được xếp hạng dựa theo điểm cá nhân của họ và không có điểm chính thức cho đội. Huy chương Vàng được trao cho 10% số học sinh đạt điểm cao nhất, Huy chương Bạc được trao cho 20% số học sinh tiếp theo, và Huy chương Đồng được trao cho 30% số học sinh tiếp đó. Bằng danh dự được trao cho thí sinh mà không giành được huy chương, nhưng đạt điểm số tối đa một bài toán trong phần thi lý thuyết hoặc phần thi thực hành. Một giải đặc biệt được trao cho thí sinh có tổng điểm cao nhất. Hai giải thưởng riêng đặc biệt được dành cho những thí sinh có được điểm số tốt nhất trong các phần thi lý thuyết và thực hành. Thỉnh thoảng, một giải thưởng đặc biệt khác được trao cho nữ thí sinh đạt điểm cao nhất.

Những sự kiện này cũng là cơ hội cho học sinh xuất sắc gặp gỡ mọi người từ khắp nơi trên thế giới, chia sẻ những sở thích chung, đi thăm những nơi khác nhau, và để liên lạc với các nền văn hóa khác. Vì mục đích của kỳ thi là giúp tăng cường quan hệ hữu nghị giữa thanh thiếu niên từ các quốc gia khác nhau, khuyến khích hợp tác và hiểu biết quốc tế.

Việc chuẩn bị cho kỳ thi

[sửa | sửa mã nguồn]

Mặc dù mỗi quốc gia tự do chọn đội tuyển của nước mình theo bất kỳ tiêu chí phù hợp nào, quá trình lựa chọn vẫn thường liên quan đến việc tổ chức các kỳ thi Olympic cấp quốc gia và khu vực. Nhiều nước đã tổ chức "trại huấn luyện" cho những học sinh hàng đầu của họ. Ở các trại huấn luyện này, các cố vấn sẽ cung cấp cho các học sinh khóa học tăng tốc tương đương trình độ cao đẳng trong ngành hóa học, với trọng tâm là các chủ đề bao trùm các bài toán chuẩn bị Olympic, và huấn luyện cho phần thi thực hành của năm đó. Đã có thỏa hiệp rằng, những chương trình đào tạo như vậy không được kéo dài quá thời gian hai tuần. Nhưng hàng năm vẫn có những cáo buộc cho rằng, một số nước đã vượt quá giới hạn này hàng tháng, hoặc thậm chí cả năm trời. Mối quan tâm khác là một số nước có xu hướng đưa cũng những học sinh đó thi năm này qua năm khác, giúp cho họ có thể giành được huy chương tốt hơn. Mặc dù một số người tin rằng việc này là chống lại tinh thần của Olympic, nhiều quốc gia vẫn gặp khó khăn trong quyết định để lại những học sinh ưu tú nhất của họ ở nhà.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Ý tưởng Olympic Hóa học quốc tế đã được phát triển tại Tiệp Khắc cũ vào năm 1968. Nó được thiết kế với mục đích tăng số lượng liên lạc quốc tế và trao đổi thông tin giữa các quốc gia. Lời mời đã được ủy ban quốc gia Séc gửi đến tất cả các nước xã hội chủ nghĩa, ngoại trừ România. Tuy nhiên, vào tháng 5 năm 1968, quan hệ giữa Tiệp KhắcLiên Xô trở nên nhạy cảm nên chỉ có Ba LanHungary tham gia kỳ thi quốc tế đầu tiên này.[1]

Olympic Hóa học quốc tế lần thứ nhất diễn ra ở Praha từ ngày 18 tháng 6 đến ngày 21 tháng 6 năm 1968. Mỗi nước trong số ba nước tham gia đã gửi tới một nhóm sáu học sinh, và bốn bài tập lý thuyết đã được giải quyết. Bản hướng dẫn cho các kỳ thi tiếp theo đã được đề xuất. Olympic Hóa học quốc tế lần thứ hai diễn ra vào năm 1969 tại Ba Lan, và Bulgaria cũng đã tham gia. Mỗi đội gồm năm học sinh, và phần thi thực nghiệm đã được bổ sung. Quyết định này được đưa ra để mời thêm các nước xã hội chủ nghĩa tới các kỳ thi tương lai và để hạn chế số lượng học sinh đến bốn. Olympic lần thứ ba vào năm 1970 đã được tổ chức tại Hungary với sự tham gia của các nước mới là Đông Đức, RomâniaLiên Xô. Trong kỳ thi này, hơn ba giải thưởng đã được phân phát cho các em học sinh.[1]

Olympic không được tổ chức vào năm 1971, vì ở phần cuối của kỳ thi năm 1970, nhà tổ chức và chủ nhà không thể nhất trí cho sự kiện tiếp theo. Điều này đã được giải quyết trong vòng ba năm kế đó bằng thỏa hiệp ngoại giao để Liên bang Xô viết làm chủ nhà năm 1972, Bulgaria vào năm 1973, và Romania vào năm 1974. Năm 1972 là lần đầu tiên mà các nhiệm vụ chuẩn bị cho Olympic Hóa học quốc tế được tạo ra. Ngoài ra, tại một phiên họp của ban giám khảo, có ý kiến cho rằng các lời mời nên được gửi tới Việt Nam, Mông Cổ, và Cuba. Nhưng thật không may, những lời mời này đã không được gửi đi, và chỉ có 7 quốc gia dự thi trong năm 1973.[1]

Năm 1974, România đã mời Thụy ĐiểnNam Tư đến tham dự Olympic ở Bucharest; ĐứcÁo đã gửi tới các quan sát viên. Cộng hòa Liên bang Đức là quốc gia NATO đầu tiên có đại diện quan sát viên và điều này chỉ có thể xảy ra bởi vì chính phủ Brandt đã có hợp đồng ở phía Đông. Như vậy, trong năm 1975, Tây Đức, Áo, và Bỉ cũng đã tham gia vào Olympic Hóa học quốc tế.[1]

Olympic đầu tiên không ở một nước xã hội chủ nghĩa đã diễn ra vào năm 1980Linz, nước Áo, mặc dù Liên Xô đã không tham gia. Kể từ đó số lượng các nước tham gia đã tăng lên đều đặn. Năm 1980, chỉ có 13 quốc gia đã tham gia nhưng con số này tăng lên 21 vào Olympic năm 1984 tại Frankfurt / Main. Với sự sụp đổ của Bức màn sắt và sự tan vỡ của Liên Xô thành các quốc gia độc lập vào đầu những năm 1990, số lượng người tham gia tăng lên một lần nữa. Ngoài ra, sự quan tâm của các nước châu Á và các nước Mỹ Latinh cũng trở nên rõ ràng hơn với số lượng người tham gia ngày càng tăng. Có tất cả 47 đoàn đã tham gia vào năm 1998 (IChO lần thứ 30 tổ chức ở Melbourne, Australia, từ 5 tháng 7 đến 14 tháng 7 năm 1998).[1]

Hiện nay, có 75 quốc gia tham dự Olympic Hóa học quốc tế.[1]

Danh sách các kì thi IChO

[sửa | sửa mã nguồn]
Thứ tự
Thành phố
Quốc gia
Ngày [1] Website
[1]
1 Prague Cờ Tiệp Khắc Tiệp Khắc 18–21 tháng 6 năm 1968
2 Katowice  Ba Lan 16–20 tháng 6 năm 1969
3 Budapest  Hungary 1–5 tháng 7 năm 1970
không được tổ chức vào năm 1971
4 Moskva  Liên Xô 1–5 tháng 7 năm 1972
5 Sofia  Bulgaria 1–5 tháng 7 năm 1973
6 Bucharest  România 1–5 tháng 7 năm 1974
7 Veszprém  Hungary 1–5 tháng 7 năm 1975
8 Halle Cộng hòa Dân chủ Đức Đông Đức 10–19 tháng 7 năm 1976
9 Bratislava Cờ Tiệp Khắc Tiệp Khắc 4–14 tháng 7 năm 1977
10 Toruń  Ba Lan 3–13 tháng 7 năm 1978
11 Leningrad  Liên Xô 2–11 tháng 7 năm 1979
12 Linz  Áo 13–23 tháng 7 năm 1980
13 Burgas  Bulgaria 13–23 tháng 7 năm 1981
14 Stockholm  Thụy Điển 3–12 tháng 7 năm 1982
15 Timişoara  România 2–11 tháng 7 năm 1983
16 Frankfurt Tây Đức 1–5 tháng 7 năm 1984
17 Bratislava Cờ Tiệp Khắc Tiệp Khắc 1–8 tháng 7 năm 1985
18 Leiden  Hà Lan 6–15 tháng 7 năm 1986
19 Veszprém  Hungary 6–15 tháng 7 năm 1987
20 Espoo  Phần Lan 2–9 tháng 7 năm 1988
21 Halle Cộng hòa Dân chủ Đức Đông Đức 2–10 tháng 7 năm 1989
22 Paris  Pháp 8–17 tháng 7 năm 1990
23 Łódź  Ba Lan 7–15 tháng 7 năm 1991
24 PittsburghWashington tháng 7 năm D.C.  Hoa Kỳ 1–22 tháng 7 năm 1992
25 Perugia  Ý 1–22 tháng 7 năm 1993
26 Oslo  Na Uy 3–11 tháng 7 năm 1994 [2]
27 Bắc Kinh  Trung Quốc 13–20 tháng 7 năm 1995
28 Moskva  Nga 14–23 tháng 7 năm 1996
29 Montreal  Canada 13–22 tháng 7 năm 1997
30 Melbourne  Úc 5–14 tháng 7 năm 1998
31 Bangkok  Thái Lan 4–11 tháng 7 năm 1999
32 Copenhagen  Đan Mạch 2–11 tháng 7 năm 2000
33 Mumbai  Ấn Độ 6–15 tháng 7 năm 2001 [3]
34 Groningen  Hà Lan 5–14 tháng 7 năm 2002
35 Athens  Hy Lạp 5–14 tháng 7 năm 2003 [4]
36 Kiel  Đức 18–27 tháng 7 năm 2004 [5]
37 Đài Bắc  Đài Loan 16–25 tháng 7 năm 2005 [6]
38 Gyeongsan  Hàn Quốc 1–11 tháng 7 năm 2006 [7]
39 Moskva  Nga 15–24 tháng 7 năm 2007 [8]
40 Budapest  Hungary 12–21 tháng 7 năm 2008 [9]
41 Cambridge  Anh 18–27 tháng 7 năm 2009 [10]
42 Tokyo  Nhật Bản 19–28 tháng 7 năm 2010 [11]
43 Ankara  Thổ Nhĩ Kỳ 9–18 tháng 7 năm 2011 [12]
44 Washington tháng 7 năm D.C.  Hoa Kỳ 21–30 tháng 7 năm 2012 [13]
45 Moskva  Nga 15–24 tháng 7 năm 2013 [14]
46 Hà Nội Việt Nam 20–29 tháng 7 năm 2014 [15]
47 Baku  Azerbaijan 20–29 tháng 7 năm 2015 [16]
48 Tbilisi  Georgia 23 tháng 7 đến 1 tháng 8 2016 [17]
49 Nakhon Pathom  Thái Lan 6-15 tháng 7 năm 2017 [18]
50 PragueBratislava  Cộng hòa Séc,  Slovakia 19-29 tháng 7 năm 2018 [19]
51 Paris  Pháp 21-30 tháng 7 năm 2019 [19]
52
53 Osaka  Nhật Bản Đầu tháng 8 năm 2021 [19]


Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g h “39th INTERNATIONAL CHEMISTRY OLYMPIAD”. Icho39.chem.msu.ru. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2018.
  2. ^ “the 26th International Chemistry Olympiad”.
  3. ^ “ICHO 2001 — Homi Bhabha Centre For Science Education, TIFR”.
  4. ^ “35 ICHO - English Page”.
  5. ^ “IPN - Internationale ChemieOlympiade”.
  6. ^ “Official site of the 37th IChO, 2005”. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2010.
  7. ^ “Official site of the 38th IChO, 2006”. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2010.
  8. ^ Official site of the 39th IChO, 2007
  9. ^ “Local index - HTTrack Website Copier”.
  10. ^ “International Chemistry Olympiad 2009”.
  11. ^ “42nd International Chemistry Olympiad”.
  12. ^ “43rd International Chemistry Olympiad”.
  13. ^ “44th International Chemistry Olympiad”.
  14. ^ Napolskiy, Filipp S. “Results”. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2017.
  15. ^ “46 th International Chemistry Olympiad”. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2017.
  16. ^ “ICHO 2015”.
  17. ^ “IChO-2016”.
  18. ^ “IChO 2017 official site”. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2017.
  19. ^ a b c “For mentors - IChO Steering Committee”. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2017.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Vấn đề chuẩn bị, kết quả chung cuộc, các phần thi lý thuyết và thực hành của các kỳ thi Olympic có thể được tìm thấy trên trang web IChO tương ứng.

Chúng tôi bán
Bài viết liên quan