Pareuchiloglanis

Pareuchiloglanis
Phân loại khoa học e
Vực: Eukaryota
Giới: Animalia
Ngành: Chordata
Lớp: Actinopterygii
Bộ: Siluriformes
Họ: Sisoridae
Tông: Glyptosternina
Chi: Pareuchiloglanis
Pellegrin, 1936
Loài điển hình
Pareuchiloglanis poilanei
Pellegrin, 1936

Pareuchiloglanis (tiếng Việt: cá Chiên bẹt)[1] là một chi cá Chiên bản xứ châu Á. Chi này gồm những loài cá da trơn ưa nước xiết, được tìm thấy ở đầu nguồn sông lớn ở Nam ÁĐông Á.[2] Chúng có nguồn gốc từ lưu vực Brahmaputra - Ấn Độ, lưu vực Dương Tử - Trung Quốc và lưu vực thuộc dãy Trường Sơn phía Nam Việt Nam.[3] Hai loài được biết đến ở sông Mê Kông: P. myzostomaP. gracilicaudata. Bốn loài được biết đến ở thượng nguồn sông Mê Kông tại Trung Quốc: P. abbreviatus, P. gracilicaudata, P. myzostomaP. prolixdorsalis.[4]

Phân loại

[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đơn ngành của chi này chưa được khẳng định.[2][5] Các dải răng trước hàm ở tông Glyptosternina rất quan trọng trong việc xác định các chi.

Ở loài Pareuchiloglanis, dải răng được phân chia thành hai phần, xuất hiện dưới hai hình thức. Một dạng thì các mảng răng trước của hàm trên được phân chia ở giữa bằng một vết lõm sâu; đây là dạng đặc trưng của loài P. feae. Nhóm này phân bố ở phía tây Mê Kông, bao phủ sự phân bố của Oreoglanis, PseudexostomaExostoma.

Ở dạng còn lại, các mảng răng trước của hàm trên dường như được nối với nhau bởi một vết lõm nông ở giữa; đây là đặc trưng của các loài Pareuchiloglanis còn lại. Nhóm này phân bố ở phía đông của sông Mê Kông.[4]

Có khoảng 26 loài[1] được công nhận, dưới đây là 20 loài trong số đó:

Các loài Pareuchiloglanis có một rãnh không liền mạch phía sau mép, khoang mang không mở rộng xuống phía dưới, răng sắc nhọn nằm ở cả hai hàm, các mảng răng ở hàm trên liền thành dải và không mọc ra phía sau hai bên và vây ngực có từ 13 đến 16 tia.[3] Phần đầu dẹp và cơ thể thon dài. Da ở mặt lưng mịn nhưng thường có đốm sần ở bề mặt bụng. Cặp mắt nhỏ, nằm ở hai bên phần trên của đầu, được bao phủ bởi da. Môi dày, nhiều thịt và có nhiều nhú. Các vây đôi được xếp nếp thành cơ quan bám dính.[1][3]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Trần Đức Hậu, Đặng Thị Thanh Hương, Tạ Thị Thủy, Ngô Thanh Xuân (2021). Mô tả loài cá chiên bẹt Pareuchiloglanis sp. (Siluriformes: Sisoridae) ở lưu vực sông Đà, địa phận huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu. Việt Nam. doi:10.18173/2354-1059.2021-0073.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  2. ^ a b Ng, H.H. (2004). “Two glyptosternine catfish (Teleostei: Sisoridae) from Vietnam and China” (PDF). Zootaxa. 428: 1–12. doi:10.11646/zootaxa.428.1.1.
  3. ^ a b c Thomson, A.W.; Page, L.M. (2006). “Genera of the Asian Catfish Families Sisoridae and Erethistidae (Teleostei: Siluriformes)” (PDF). Zootaxa. 1345: 1–96. doi:10.11646/zootaxa.1345.1.1.
  4. ^ a b Li, X., Zhou, W., Thomson, A.W., Zhang, Q. & Yang, Y. (2007). “A review of the genus Pareuchiloglanis (Sisoridae) from the Lancangjiang (upper Mekong River) with descriptions of two new species from Yunnan, China” (PDF). Zootaxa. 1440: 1–19. doi:10.11646/zootaxa.1440.1.1.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  5. ^ Guo, X.; He, S.; Zhang, Y. (2007). “Phylogenetic relationships of the Chinese sisorid catfishes: a nuclear intron versus mitochondrial gene approach”. Hydrobiologia. 579 (1): 55–68. doi:10.1007/s10750-006-0369-8.
  6. ^ Kang, Z., Chen, Y. & He, D. (2016): Pareuchiloglanis hupingshanensis, a new species of the glyptosternine catfish (Siluriformes: Sisoridae) from the middle Yangtze River, China. Zootaxa, 4083 (1): 109-125.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Một vài yếu tố thần thoại qua hình tượng loài quỷ trong Kimetsu no Yaiba
Một vài yếu tố thần thoại qua hình tượng loài quỷ trong Kimetsu no Yaiba
Kimetsu no Yaiba (hay còn được biết tới với tên Việt hóa Thanh gươm diệt quỷ) là một bộ manga Nhật Bản do tác giả Gotoge Koyoharu sáng tác và minh hoạ
Corpse Bride - tản mạn về phim, cảm xúc của Victor đối với Emily là gì?
Corpse Bride - tản mạn về phim, cảm xúc của Victor đối với Emily là gì?
Victor gặp Emily trong một hoàn cảnh khá trớ trêu. Emily là một cô gái hồng nhan bạc mệnh, vì trót trao nhầm tình yêu cho một kẻ đểu cáng mà ra đi tức tưởi trong bộ váy cưới
Cốt lõi của
Cốt lõi của "kiệt sức vì công việc" nằm ở "mức độ hài lòng với bản thân"?
Nếu bạn cảm thấy suy kiệt, bắt đầu thấy ghét công việc và cho rằng năng lực chuyên môn của mình giảm sút, bạn đang có dấu hiệu kiệt sức vì công việc.
Amanomahitotsu - thợ rèn đại tài của Ainz Ooal Gown
Amanomahitotsu - thợ rèn đại tài của Ainz Ooal Gown
Trong số đó người giữ vai trò như thợ rèn chính, người sỡ hữu kỹ năng chế tác cao nhất của guild chính là Amanomahitotsu