Phân họ Sả | |
---|---|
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Aves |
Bộ (ordo) | Coraciiformes |
Họ (familia) | Alcedinidae |
Phân họ (subfamilia) | Halcyoninae Vigors, 1825 |
Các chi | |
Phân họ Sả hay Phân họ Trả (Halcyonidae)[1] là phân họ chim có số lượng loài nhiều nhất trong ba phân họ của họ bói cá, với khoảng 70 loài được chia thành 12 chi. Các loài chim trả được biết rất rõ, sự phỏng đoán trong tính toán phản ánh các mâu thuẫn trong phân loại của phân họ này hơn là sự thiếu hụt dữ liệu tổng thể về nhóm chim này.
Phân họ này dường như có nguồn gốc ở khu vực Đông Dương và bán đảo Mã Lai và sau đó phổ biến tới nhiều khu vực trên thế giới. Các loài chim trả hiện nay phổ biến rộng khắp ở châu Á và Australasia, nhưng cũng có mặt tại châu Phi và các đảo trên Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.
Danh sách các loài theo chi.
Sách Danh lục chim Việt Nam, của Võ Quý và Nguyễn Cử, Nhà xuất bản Nông nghiệp, 1995 và Chim Việt Nam, Nhà xuất bản Lao động -Xã hội xuất bản năm 2000, dựa trên công trình của các tác giả Nguyễn Cử, Lê Trọng Trải và Karen Phillips, thuộc chương trình BirdLife Quốc tế tại Việt Nam xếp các loài sả nói trên vào phân họ Bồng chanh (Alcedininae), thuộc họ Bói cá (Alcedinidae). Theo sách này, ở Việt Nam có các loài sả vằn (Lacedo pulchella), sả mỏ rộng (Halcyon capensis), sả hung (Halcyon coromanda), sả đầu nâu (Halcyon smyrnensis), sả đầu đen (Halcyon pileata), sả khoang cổ (Todirhamphus chloris).
Do bề ngoài của nhiều loài trong ba họ bói cá này khá giống nhau nên các từ như sả, chả, trả có thể dùng khá lẫn lộn. Còn gọi là phỉ thúy (vay mượn từ tiếng Trung 翡翠).