Phạm Hầu | |
---|---|
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Tên khai sinh | Phạm Hữu Hầu |
Ngày sinh | 2 tháng 3, 1920 |
Nơi sinh | Quảng Nam |
Mất | |
Ngày mất | 3 tháng 1, 1944 |
Nơi mất | Quảng Bình |
Giới tính | nam |
Quốc tịch | Liên bang Đông Dương |
Nghề nghiệp | họa sĩ, nhà thơ |
Gia đình | |
Cha | Phạm Liệu |
Mẹ | Lê Thị Giảng |
Phạm Hầu (2 tháng 3 năm 1920 – 3 tháng 1 năm 1944) hay Phạm Hữu Hầu (tên ghi trong gia phả) là nhà thơ tiền chiến Việt Nam.
Phạm Hầu sinh ở Gò Nổi, làng Trừng Giang nay thôn Hòa Giang, xã Điện Trung, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Ông là con Tiến sĩ Phạm Liệu, người đứng đầu nhóm Ngũ Phụng Tề Phi, từng làm quan trải đến chức Tổng đốc Nghệ An rồi Thượng thư Bộ binh dưới các triều vua Thành Thái, Duy Tân, Khải Định và Bảo Đại. Mẹ ông là bà Lê Thị Giảng, người Thanh Hóa.
Lúc nhỏ, ông học trường Quốc Học Huế, sau ra Hà Nội học tại trường Mỹ thuật Đông Dương (nay là Đại học Mỹ thuật Việt Nam).
Do mắc chứng bệnh động kinh, ông nằm điều trị tại nhà thương Vôi ở Bắc Giang một thời gian rồi được chuyển về quê nhà, nhưng khi tàu hỏa đến đoạn Đồng Hới (Quảng Bình) - Huế, thì ông mất, hưởng dương 24 tuổi. Hôm ấy, là ngày 3 tháng 1 năm 1944.
Kể về chuyến trở về của Phạm Hầu, sách Việt Nam thi nhân tiền chiến (Quyển 2) viết: (Phát giác ông mất), người soát vé bắt buộc người thân đi theo phải đem xác ông xuống ga Truồi (Huế). Từ nơi đó, người nhà thuê thuyền đưa ông về Huế rồi an táng trên một đồi nhỏ, sau một ngôi chùa cổ ở vùng Nam Giao. Và để tiễn biệt một linh hồn cô đơn đi vào nơi yên nghỉ cuối cùng, người ta chỉ nghe đôi câu kinh, vài tiếng thút thít trong một chiều mưa gió thê lương...[1]
Theo Việt Nam thi nhân tiền chiến (Quyển 2), về hội họa, ông đã được tặng thưởng trong kỳ triển lãm hội họa tại Tokyo (Nhật Bản); về thơ, ông làm không nhiều (vỏn vẹn chỉ có khoảng 20 bài), thường đăng thơ trên các tạp chí Tao Đàn, Mùa gặt mới, Bạn đường...[1]
Năm 2001, nhà xuất bản Thanh Niên đã cho xuất bản thơ ông, tập thơ có tên Vẫy ngoài vô tận do nhà văn Hoàng Minh Nhân biên soạn. Đúng ra ông Phạm Hầu là họa sĩ vì ông học trường Mỹ thuật Đông Dương khóa 13, rất tiếc không rõ ông có bao nhiêu tác phẩm, nơi lưu giữ hay thất truyền. Vào tháng 5/2017 nhà văn Hòa Văn quê làng Đông Bàn xã Điện Trung thị xã Điện Bàn tỉnh Quảng Nam tìm thấy một họa phẩm của họa sĩ Phạm Hầu đó là bức chân dung ông thợ mộc Trần Văn Anh cùng làng Trừng Giang với họa sĩ. Chân dung vẽ bút chì còn tốt đang được ông Trần Cao Hoang (tên thường gọi Trần Văn Quận) hiện ở làng Trừng Giang (thôn Hòa Giang xã Điện Trung thị xã Điện Bàn tỉnh Quảng Nam) lưu giữ làm di ảnh thờ.
Trích bài viết của Phạm Hầu, được dẫn lại trong Việt Nam thi nhân tiền chiến (Quyển 2):[1]
“ | Nếu một họa sĩ vẽ cô gái đẹp ấy y như thật, thì chỉ là thợ truyền thần giỏi mà thôi. Vì nhà truyền thần kia đi theo cảnh vật, làm nô lệ cảnh vật. Họ không phải là một nhà tư tưởng, một nhà sáng tạo. Mà trong địa hạt nghệ thuật, chỉ có sáng tạo mới là cái đẹp chân chính. | ” |
“ | Cái quan niệm cho Nghệ thuật là một trò chơi không thể được nữa. Nhà nghệ sĩ không phải là một đứa trẻ vô tư trong trò chơi. Nghệ sĩ không thể không đau khổ, nhưng cái đau khổ ấy không phải là một thất vọng. Bởi đấy chính là một công việc giải phẫu mà nghệ sĩ phải chịu để cho ra đời một tác phẩm. | ” |
Trích trong Thi nhân Việt Nam:
Trích trong Việt Nam thi nhân tiền chiến (Quyển 2):
Thơ ông thường buồn. Cái buồn của thi nhân cứ gờn gờn lên từng hồi, như bài Chiều buồn chỉ 20 câu mà đã lập lại 5 chữ buồn. Tương tự, bài Vọng lâu cũng chỉ 20 câu, tác giả cũng đã " buồn" 8 lần. Hai thi phẩm sau đây, tuy không có chữ buồn, nhưng người yêu thơ vẫn có thể cảm nhận được nỗi cô đơn, đau đớn và ray rức trong thơ ông...[3]
|
|