Tống Thị Lĩnh 宋氏領 | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Phi tần chúa Nguyễn | |||||||||
Hoàng hậu nhà Nguyễn | |||||||||
Tại vị | Truy tôn | ||||||||
Tiền nhiệm | Chu Thị Viên | ||||||||
Kế nhiệm | Tống Thị Được | ||||||||
Thông tin chung | |||||||||
Sinh | 1653 Thanh Hóa, Tên gọi Việt Nam#Đại Việt | ||||||||
Mất | 23 tháng 5 năm 1696 (43 tuổi) Phú Xuân, Tên gọi Việt Nam#Đại Việt | ||||||||
An táng | Lăng Vĩnh Mậu (Hương Trà, Huế) | ||||||||
Phu quân | Nghĩa vương Nguyễn Phúc Thái | ||||||||
Hậu duệ | Minh vương Nguyễn Phúc Chu | ||||||||
| |||||||||
Thân phụ | Tống Phước Vinh | ||||||||
Thân mẫu | Lê thị |
Tống Thị Lĩnh (chữ Hán: 宋氏領; 1653 – 23 tháng 5 năm 1696), tôn hiệu Hiếu Nghĩa Hoàng hậu (孝義皇后), là một cung tần của Nghĩa vương Nguyễn Phúc Thái trong lịch sử Việt Nam.
Tống Thị Lĩnh sinh năm Quý Tỵ (1653), nguyên quán ở huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa[1]. Bà là con gái của Tống Phước Vinh, được truy tặng Thiếu phó Quận công, mẹ là phu nhân họ Lê[2]. Bà Lĩnh nhập phủ chúa khi Nghĩa vương Nguyễn Phúc Thái còn ở nơi tiềm để, được xếp vào bậc Cung tần[2].
Người con duy nhất của Cung tần Tống thị là công tử Nguyễn Phúc Chu, về sau kế nghiệp Nghĩa vương, được gọi là Minh vương. Lúc bà Lĩnh mang thai, ở phía tây nam có một đám mây tròn bay vòng quanh, ở giữa có một chỗ sáng tròn khác thường từ trên không trung rọi xuống, ánh sáng soi rọi lên bầu trời[2]. Người thức giả cho là điềm sinh thánh. Chúa Nghĩa có một bà Gia phi họ Nguyễn, bà phi này không có con nên rất yêu thương công tử Nguyễn Phúc Chu[2].
Năm Bính Tý (1696), ngày 22 tháng 3 (âm lịch), bà Cung tần Tống thị qua đời, thọ 44 tuổi[1]. Minh vương Nguyễn Phúc Chu đăng cơ gia tặng cho thân mẫu làm Quốc Thái phu nhân (國太夫人)[1]. Lăng của bà được gọi là lăng Vĩnh Mậu (nay thuộc làng Định Môn, thị xã Hương Trà, Huế)[1]. Bà được phối thờ với Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu tại Thái Miếu, ở án thứ hai bên phải.
Năm Giáp Tý (1744), Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát tấn tặng cho bà làm Từ Tiết Tĩnh Thục Hiếu Từ Hiến phi (慈節靜淑孝慈憲妃)[2].
Năm Gia Long thứ 5 (1806), vua truy tôn cho bà làm Từ Tiết Tĩnh Thục Tuệ Mẫn Hiến Thuận Hiếu Nghĩa Hoàng hậu (慈節靜淑慧敏憲順孝義皇后)[2]. Bài sách văn tấn tôn có lời rằng: