Phi tần (chữ Hán: 妃嬪, tiếng Anh: Imperial consort / Royal concubine), Thứ phi (次妃), Tần ngự (嬪御) hoặc Cung nhân (宮人), là những tên gọi chung cho nàng hầu (tì nữ), thiếp của các vị quân chủ trong xã hội phong kiến phương Đông, như Hoàng đế, Quốc vương hay chúa Trịnh, chúa Nguyễn thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh trong lịch sử Việt Nam. Ngoài ra, những quốc gia vùng Trung Đông, nơi những quốc gia Hồi giáo như Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ không nghiêm ngặt chế độ một vợ một chồng nên cũng thường có phi tần, vợ lẽ, và họ được gọi là Hậu cung.
Phi tần mang danh phận thứ thiếp đứng dưới người vợ chính là Hoàng hậu hay Vương hậu, giữ trách nhiệm trông nom, cất đặt và thừa hành các công việc nội cung. Các triều đại Đông Á luôn chú trọng danh vị của các phi tần, được chia rất tỉ mỉ theo giai phẩm, nghĩa vụ cùng bổng lộc với đủ loại thân phận. Các triều đại đối với việc phi tần có nhiều và đông đảo luôn cảm thấy cần khuyến khích và tự hào, nên cật lực thiết đặt nhiều chế độ để tuyển chọn những cô gái xinh đẹp nhất và trẻ tuổi vào hậu cung, dẫn đến số lượng của họ thường xuyên rất lớn. Bởi vì lý do này, nên trong văn học Trung Quốc đã dùng rất nhiều những cụm từ rất ước lệ miêu tả, như Tam cung Lục viện Thất thập nhị phi (三宫六院七十二妃), Hậu cung phi tần tam thiên (后宫妃嬪三千) hoặc Giai lệ tam thiên (佳麗三千)[1]. Không chỉ thông qua tuyển chọn, trong hậu cung có rất nhiều Cung nữ, theo quan niệm tuy chưa là tần phi chính thức nhưng họ luôn có thể được sủng hạnh bất cứ lúc nào, nên các Cung nữ đông đảo cũng được xem là một bộ phận phi tần[2].
Phi tần trong xã hội phong kiến là một tập đoàn người đặc biệt, nhận sự sủng ái của đế vương, giữ sự cân bằng quyền lực giữa các thế lực trong triều và mối hòa hiếu giữa các nước láng giềng, ảnh hưởng lớn đến cục diện chính trị. Phi tần mang nhiều danh phận với thứ bậc cao thấp khác nhau ở từng quốc gia và triều đại cụ thể.
Trước thời nhà Hạ, chúa tể cai trị thiên hạ gọi là Thiên tử (天子), thuở sinh thời xưng là Hậu (后), khi mất thì triều thần mới tôn thụy là Đế (帝), vợ chính của Thiên tử gọi là Phi (妃). Từ triều nhà Thương, Thiên tử xưng Vương (王), vợ chính gọi là Hậu.
Lễ ký - Hôn nghi ghi lại chế độ nội cung nhà Chu: "Noi gương cổ nhân dưới Hậu, Thiên tử lập sáu cung, lấy ba Phu nhân, chín Tần, hai mươi bảy Thế phụ, tám mươi mốt Ngự thê."
Đây là những ghi chép bằng văn tự sớm nhất trong lịch sử phong kiến về chế độ nội cung.
Đầu đời Hán, ngoài Hoàng hậu đều xưng Phu nhân, sau thêm Mỹ nhân các loại. Đời Vũ Đế chế ra Tiệp dư, đời Nguyên Đế, chế ra Chiêu nghi, lúc này Hậu cung đã có gồm 19 chức danh, chia thành 14 bậc[3]:
Chế định triều Tây Hán phức tạp, lẫn vào đó có vẻ còn có Nữ quan, dù lúc này khái niệm Nữ quan vẫn chưa rõ ràng như về sau. Vợ chính của Hoàng thái tử gọi là Hoàng thái tử phi (皇太子妃), nàng hầu có các bậc:
Quang Vũ Đế định lại thứ bậc nội cung, dưới Hoàng hậu đặt các bậc: Quý nhân (貴人), Mỹ nhân (美人), Cung nhân (宮人) và Thái nữ (采女), đều không có tước hàm, mỗi khi đến mùa mới đem thưởng vật phẩm.
Chế độ tuyển hậu cung nhà Hán có gọi là Bát nguyệt Toán nhân (八月筭人). Căn cứ Hậu Hán thư chú ghi lại:「"Vào tháng 8 âm lịch hằng năm, triều đình cử Dịch đình thừa cùng Tương công tới các miền quê quanh kinh đô Lạc Dương tuyển chọn người đẹp đang độ xuân thì, tuổi từ 13 tới 20, nét mày thanh tú, cử chỉ đoan trang, tướng mạo cát lợi. Đều sung vào hậu cung, thời gian ấy hầu hạ chu toàn, tất sẽ đưa lên Hoàng đế lâm hạnh. Do vậy quan viên sai đi tuyển chọn đều có tiêu chí cẩn thận, sách hạch rõ ràng những cô gái này phải vừa hiền vừa có trí"」. Từ đời Minh Đế, tuy ức chế ngoại thích, bỏ tình riêng mà không trọng dụng anh em của Hoàng hậu, nhưng từ Chương Đế bắt đầu, từ hậu cung đã không có đức. Hoàn Đế, Linh Đế hoang dâm, từ phi tần đến kẻ hầu người hạ tới hai vạn người.
Tào Tháo khi còn là Ngụy vương, dưới Vương hậu định ra:
Đông Hán mất nước, Văn Đế bức Hán Hiến Đế nhường ngôi. Chế độ nội cung phân chia thứ bậc có mang theo quy định từ thời còn là Ngụy vương, đến thời Minh Đế mới hoàn thiện, tổng 14 bậc:
Ngoài những đẳng vị trên, nhà Ngụy thỉnh thoảng còn thấy nhắc đến Quý nhân, Tài nhân nhưng địa vị không rõ.
Tấn Vũ Đế tham khảo chế độ Tào Ngụy, thiết lập hậu cung. Dưới Hoàng hậu có:
Dưới Cửu tần còn thiết Mỹ nhân (美人), Tài nhân (才人), Trung tài nhân (中才人), vị dưới 1.000 thạch.
Đao Vũ Đế thiết lập hậu cung rất đơn giản, dưới Hoàng hậu chỉ có Phu nhân, dù vậy giữa các phu nhân cũng thiết lập các thứ bậc trên dưới về đãi ngộ. Do tình trạng "Tử quý mẫu tử" (子贵母死), bắt buộc ban chết người sẽ sinh ra Trữ quân, nên hậu cung Bắc Ngụy lại có một danh hiệu đặc thù Bảo Thái hậu (保太后), dành để phong cho các bảo mẫu - người nuôi dạy các Hoàng đế tương lai khi mẹ ruột không còn.
Thái Vũ Đế lên ngôi, thiết lập hậu cung rõ ràng hơn:
Hiếu Văn Đế xem trọng Hán hóa, cải cách hậu cung, vị thứ ngang với quan viên:
Chế độ nội cung hoàn thiện dưới thời Vũ Thành Đế với hệ thống tước hiệu phức tạp bậc nhất trong lịch sử các triều đại phong kiến. Thời kỳ này cũng là lần đầy tiên định hạng giai phẩm của quan viên cho phi tần, khác với các triều đại trước chỉ dừng ở mức so ngang vế với các bậc quan viên:
Phẩm cấp các phi tần trong nội đình:
Tuyên Đế nhượng vị cho Tĩnh Đế, phá bỏ quy tắc chính thứ, cùng lúc lập Hoàng hậu gồm 5 người là:
Ban đầu, hậu cung Lưu Tống mô phỏng theo nhà Tấn, dưới Hoàng hậu được thiết lập:
Năm Hiến Kiến thứ 3 (456), Hiếu Vũ Đế cải tổ tại hậu cung quy chế, đến Minh Đế hoàn thiện:
Năm Kiến Nguyên nguyên niên (479), Cao Đế thiết lập hậu cung vị phân, bao gồm:
Năm Kiến Nguyên thứ 3, Nội cung của Hoàng thái tử thiết lập thêm 3 nội chức:
Năm Vĩnh Minh nguyên niên, Vũ Đế nghe theo Lễ tư tấu thỉnh, thiết lập vị trí Quý phi (貴妃), cũng đem Thục phi từ Cửu tần ra thành độc lập, tăng thêm đãi ngộ của cả hai tước vị này, ngang với Tam tư (三司). Năm thứ 7, triều đình thêm Chiêu dung (昭容) vào Cửu tần, bổ khuyết vị trí cũ của Thục phi.
Vũ Đế khai triều, thiết lập hậu cung vị giai có tương đồng với Lưu Tống:
Đông Cung của Thái tử, thiết lập Lương đệ (良娣) và Bảo lâm (保林).
Khi triều Trần lập quốc, Vũ Đế không thiết lập hậu cung tỉ mỉ. Đến Văn Đế, bắt đầu định vị hiệu đều tương tự triều Lương.
Tùy thư ghi lại, Văn Đế mở nghiệp, phi tần khi ấy chỉ vài người đều thuộc dòng dõi trâm anh, con em các bậc huân thuần cung tiến, nhà vua cũng ít dịp được gần gũi do bà nguyên phối có tính ghen tuông:
Bên cạnh đó, Văn Đế lại theo điển lệ từ đời Hán, Tấn mà đặt chức nữ quan gọi là Lục thượng (六尚), cùng Lục ti (六司), chuyên giáo hóa điển phạm trong hậu cung.
Nhân Thọ năm thứ 2 (602), Văn Hiến Hoàng hậu qua đời, nhà vua sa vào mỹ sắc, từ cung cấm chọn ra những bậc tài sắc ban phong các chức phi tần:
Dạng Đế hoang dâm, mệnh thiên hạ phải cung tiến người đẹp để thỏa thú vui vầy, trở thành khuôn thước cho tam cung lục viện của các bậc đế vương sau này:
Sách Đường thư ghi lại, Cao Tổ mở nghiệp, nội cung noi theo Chu lễ và nhà Tùy khi trước, phân chia thứ bậc:
Cao Tổ truy tặng bà thứ thất quá cố Mạc Lệ Phương làm Quý tần (貴嬪), không rõ phẩm trật. Ngoài ra còn đặt Nữ quan, có đặt ra chức Thượng cung (尚宮) hàm Chính ngũ phẩm, đứng đầu hệ thống Lục cục Nhị thập tứ ty, gọi là Cung quan (宮官), phân biệt với Hậu phi được gọi là Nội quan (內官)[4][5].
Vĩnh Huy năm thứ 6 (655), Cao Tông có ý định lập Tài nhân của Thái Tông là Võ Mỵ làm Thần phi (宸妃) nhưng không thành. Long Sóc năm thứ 2 (662), Cao Tông quyết định thiết định lại thứ bậc nội cung:
Nhưng quy cách này nhanh chóng sau đó bị bãi bỏ, quay lại như chế độ thời Đường Cao Tổ.
Huyền Tông những năm Khai Nguyên, định lại thứ bậc nội cung. Châm chước đời Vũ Đức đến nay định Tứ phi, trong khi Hậu và Phi ứng Tứ tinh (四星), đã có Chính hậu không nên có Tứ phi, do vậy cải định vị hiệu cùng thứ bậc:
Vừa lên ngôi, Huyền Tông tặng Dương Lương viên làm Quý tần, không rõ phẩm trật. Thiên Bảo năm thứ 4 (745), Huyền Tông mê đắm người con dâu là trang khuynh quốc Dương Thái Chân, bất chấp đạo luân thường lập bà làm Quý phi. Túc Tông nối ngôi khôi phục chế độ nội cung thuở lập quốc. Thời kỳ cuối, triều Đường bắt đều thiết lập lệ gia tôn cho Nội cung tiền triều. Phi tần sinh hoàng nam tôn Thái phi (太妃), sinh hoàng nữ tôn Thái nghi (太儀).
Tại Đông Cung, chính thất của Hoàng thái tử gọi là Hoàng thái tử phi (皇太子妃), ngoài ra còn có Nội quan nàng hầu, có các bậc:
Các tông thất được phong Vương, thê thiếp đều gia ân cáo mệnh theo tước chồng, các bà Chiêu Thành, Trang Hiến thuở tiềm để đều phong là Nhụ nhân (孺人).
Thời kỳ hỗn loạn và ngắn ngủi, sách sử của các triều đại cũng do người đời sau soạn mà viết. Chế độ hậu cung của từng triều, từng quốc gia không hoàn chỉnh và đầy đủ như các thời kỳ trước.
Trước mắt, Hậu Đường Trang Tông thiết trí hậu cung[6], có:
Quảng Chính năm thứ 3 (941), Chúa đất Hậu Thục là Mạnh Sưởng nhân yến hội tiết Thượng nguyên định lệ thứ bậc cung tần:
Chế độ nội cung nhà Tống ban đầu phân chia thứ bậc theo cách gọi của nhà Đường, được hoàn thiện dưới thời Chân Tông:
Về vị trí Chính nhị phẩm, ban đầu chỉ có từ Chiêu nghi đến Sung viên, tước Thái nghi đều dùng cho sinh mẫu của Công chúa[7], đây là án theo phép nhà Đường, còn gọi Cửu tần (九嬪). Năm Đại Trung Tường Phù thứ 6 (1013) đời Tống Chân Tông, thiết trí từ Thục nghi đến Uyển dung, hàm Tòng nhất phẩm, ở trên Chiêu nghi[8]. Sau lại đến năm Càn Hưng nguyên niên (1022), tăng thêm Quý nghi, ở trên Thục nghi[9]. Tống sử chép tất cả thành Chính nhị phẩm[10].
Minh Đạo nguyên niên (1032), sách tặng thân sinh của Nhân Tông là Lý thị làm Thần phi (宸妃), không rõ phẩm trật. Sang năm Năm Minh Đạo thứ 2 (1033), giáng Quách Hoàng hậu làm Tịnh phi (净妃), cũng không rõ phẩm trật.
Vào đời nhà Tống, các cung nữ sủnga hạnh rất nhiều, đều vô hạng Ngự thị (御侍), các vị Ngự thị này còn có thể gia phong thêm vị hiệu của Mệnh phụ như Quốc phu nhân (國夫人), Quận quân (郡君) và Huyện quân (縣君), dưới nữa thì lại có danh xưng Tử hà bí (紫霞帔) và Hồng hà bí (紅霞帔). Đời Tống xưng hô từ Tài nhân trở lên là Phòng viện (房院)[11], dưới nữa như từ Quận quân đến Hà bí thì đều gọi là Hợp (閤). Tuy các Ngự thị rất nhiều, song khi xét để lên phẩm trật được quy định ở trên cũng đều rất thận trọng. Theo đó thì vào triều đại nhà Tống, hoàng thất có quy định ngầm là không được lạm phong tước hiệu thuộc hàng Ngũ phẩm cho hậu phi, đời Tống Nhân Tông chỉ muốn phong nhiều hơn vài người một chút đã bị can gián là "Quá sủng ái", có thể thấy được vấn đề phong tước cho hậu phi tương đối nghiêm trọng[12].
Do vấn đề về tư liệu, hậu cung nhà Liêu cho đến nay vẫn khá khiếm khuyết tư liệu. Bộ Liêu sử, mục "Hậu phi truyện" ghi lại chỉ có hậu phi mang họ Tiêu, trừ Hoàng hậu Tiêu thị của Mục Tông không rõ xuất thân, cùng Hoàng hậu Chân thị của Thế Tông, toàn bộ còn lại đều là người họ Tiêu thuộc gia tộc Khiết Đan. Trong gia tộc họ Tiêu, cũng phân ra hai nhánh chính, là họ Tiêu của Thuật Luật thị (述律氏) cùng họ Tiêu của Bạt Lý thị (拔里氏), hai gia tộc lớn có ảnh hưởng đến chính trị nước Liêu.
Trong Liêu sử cũng cho biết, phi tần hậu cung triều Liêu có bộ phận từ Vương quốc Bột Hải và người Hán, phi hiệu cũng ghi lại có năm loại: Nguyên phi (元妃), Quý phi (貴妃), Đức phi (德妃), Huệ phi (惠妃), Văn phi (文妃). Còn bên dưới Phi, chỉ biết triều Thánh Tông có Lục nghi (六儀), gồm: Lệ nghi (麗儀), Thục nghi (淑儀), Chiêu nghi (昭儀), Thuận nghi (順儀), Phương nghi (芳儀), Hòa nghi (和儀).
Chế độ nội cung nhà Kim ban đầu phân chia thứ bậc theo cách gọi của nhà Đường. Thời kỳ quốc sơ, các Phi không có vị hiệu, đến Kim Hi Tông mới đặt Quý phi (貴妃), Hiền phi (賢妃) và Đức phi (德妃)[13].
Hải Lăng Vương dâm loạn, đặt 12 mỹ hiệu cho các phi tử nơi cung cấm là Nguyên phi (元妃), Xu phi (姝妃), Huệ phi (惠妃), Quý phi (貴妃), Hiền phi (賢妃), Thần phi (宸妃), Lệ phi (麗妃), Thục phi (淑妃), Đức phi (德妃), Chiêu phi (昭妃), Ôn phi (溫妃), Nhu phi (柔妃).
Cuối cùng, quy chế hậu cung thời Kim được hoàn thiện vào niên hiệu Trinh Hựu dưới thời Tuyên Tông[14]. Những giai bậc gồm:
Sau, Tuyên Tông lại cải đổi tiếp, quy định lại cấp bậc như:
Hậu cung nhà Nguyên có sự tinh giản rất lớn nếu so với các triều khác. Ngoài Hoàng hậu thì chỉ còn Phi tần; mỗi bậc không quy định số lượng và giới hạn, do đó có vô số Phi tần cũng như vô số Hoàng hậu.
Hậu cung triều Nguyên lấy Oát Nhĩ Đóa [斡耳朵; Orda], còn gọi Cung trướng (宮帳) để phân chia địa vị Hậu phi. Một tòa Cung trướng có tới mấy vị Hoàng hậu và Phi tần; và họ lấy "Đệ nhất Cung trướng" làm vị trí độc tôn, những Hoàng hậu và Phi tần ở trong Đệ nhất Cung trướng cũng sẽ là bậc có địa vị cao nhất. Dưới triều đại Huệ Tông, hậu cung thiết trí thêm tước vị Tài nhân (才人), Phi và Tần chia ra làm hai bạc, do đó về cơ bản hậu cung thời kỳ cuối của triều Nguyên có 4 bậc, là: Hoàng hậu, Phi, Tần và Tài nhân.
Cũng trong thời kỳ cuối triều Nguyên, Hoàng hậu cật lực được duy trì chỉ có một người tại vị. Nhưng cơ bản từ thời quốc sơ đã thiết lập luật bất thành văn, rành chỉ có Trung cung Hoàng hậu mới có sắc bảo còn các Hoàng hậu khác thì không, ví dụ như Sát Tất Hoàng hậu.
Thái Tổ năm Hồng Vũ thứ 5 (1372) ban chỉ dụ định thứ bậc nội cung. Bậc phi lấy Quý phi kế dưới Hoàng hậu có danh phận cao nhất, lại đặt Hiền phi (賢妃), Thục phi (淑妃), Trang phi (莊妃), Kính phi (敬妃), Huệ phi (惠妃), Thuận phi (順妃), Khang phi (康妃), Ninh phi (寧妃) lấy các mỹ từ "Hiền", "Thục", "Trang", "Kính"... làm tên hiệu mà phân biệt ngôi thứ. Dưới hàng phi là các cung tần Chiêu nghi (昭儀), Chiêu dung (昭容), Tiệp dư (婕妤), Quý nhân (貴人), Mỹ nhân (美人).
Cảnh Thái năm thứ 6 (1456), Đại Tông lập bà phi họ Đường làm Hoàng quý phi, Anh Tông phục vị lại phế đi. Hiến Tông năm Thành Hóa thứ 2 (1466) ngự ban cho Vạn Quý phi huy hiệu "Hoàng", gọi là Hoàng quý phi (皇貴妃), từ đó lấy Hoàng quý phi là danh phận phi tần cao nhất.
Thời Minh, địa vị Hoàng hậu suy thoái, cũng do ảnh hưởng bởi việc ngăn ngừa và đề phòng ngay từ đầu mà chưa từng thấy việc Hoàng hậu hoặc Hoàng thái hậu nhiếp chính hoặc ngoại thích chuyên quyền. Bên cạnh đó, phi tần cũng có nhiều người được sủng hạnh, dựa vào uy thế mà có thể lấn át Hoàng hậu. Có những phi tần đứng đầu hậu cung sau khi Hoàng hậu qua đời, tắc gọi ["Nhiếp lục cung sự"; 攝六宫事]. Bên cạnh đó, số lượng tùy từng tước đều do Hoàng đế tự quy định, hoàn toàn không có giới hạn bao nhiêu Hoàng quý phi hay là Phi, vì lý do đó hậu cung triều Minh bị xem là cực kỳ hỗn loạn về danh phận.
Gia Tĩnh năm thứ 10 (1531), Thế Tông dựa theo Chu lễ đặt thêm Cửu tần, gồm: Đức tần (德嬪), Hiền tần (賢嬪), Trang tần (莊嬪), Lệ tần (麗嬪), Huệ tần (惠嬪), An tần (安嬪), Hòa tần (和嬪), Hy tần (僖嬪), Khang tần (康嬪), danh phận dưới phi. Lúc này, mô hình của hậu cung triều Minh dưới Hoàng hậu sẽ là:
Dẫu Cửu tần triều Gia Tĩnh là có tên như vậy, song về sau có rất nhiều tước Tần đều nằm có phong hiệu khác, như Ninh tần (寧嬪), Vinh tần (榮嬪), Kính tần (敬嬪)..., xem ra phong hiệu này cũng không cố định tương tự Phi ở trên.
Ngoài ra, tương tự như chế độ nhà Đường rồi nhà Tống, trong cung đình nhà Minh cũng có rất nhiều Thứ phi trong hậu cung, những người từng được Hoàng đế sủng hạnh qua nhưng chưa bao giờ được xem là phi tần chính thức. Họ sẽ có hai loại đãi ngộ chính, một là đem trở thành phi thiếp chính thức và đạt được đãi ngộ nhất định, như Hồ Thị ngự (胡侍御) của Thần Tông, còn không thì chỉ được xem là Cung nhân bình thường, không danh không phận mà vẫn phải làm việc của Cung nữ, như Đới Ngân Nương (戴銀娘) của Hiến Tông cùng Vương Mãng Đường (王滿堂) của Vũ Tông.
Vợ chính của Hoàng thái tử gọi là Hoàng thái tử phi (皇太子妃), nàng hầu có các bậc Tài nhân (才人), Tuyển thị (選侍) và Thục nữ (淑女).
Lúc đầu triều, nhà Thanh chưa định chế độ nội cung. Theo lệ cũ từ thời Hậu Kim, phi tần vẫn dùng cách gọi tiếng Mãn mà xưng hiệu Phúc tấn và Cách cách, riêng các chính thê được đặc biệt gọi là Đại phúc tấn (大福晉). Hoàng Thái Cực năm Sùng Đức nguyên niên (1636), lập Đại phúc tấn Triết Triết làm Thanh Ninh cung Hoàng hậu (清寧宮皇后), đồng thời tấn phong bốn vị Trắc phúc tấn làm Phi, lần lượt là: Hải Lan Châu làm Quan Thư cung Thần phi (關雎宮宸妃), Na Mộc Chung làm Lân Chỉ cung Quý phi (麟趾宮貴妃), Ba Đặc Mã Tảo làm Diễn Khánh cung Thục phi (衍慶宮淑妃) và Bố Mộc Bố Thái làm Vĩnh Phúc cung Trang phi (永福宮莊妃).
Từ triều Thuận Trị đến giữa Khang Hy, cung đình triều Thanh dùng "đãi ngộ" dựa theo cấp, hơn là định vị hiệu. Theo đó, ngoại trừ Hoàng hậu là luôn cố định chính danh, thì các cấp đãi ngộ của phi tần có:
Thời kỳ này chỉ dùng "đãi ngộ" để quyết định cao thấp, do đó hầu như rất ít người có vị hiệu chính thức. Hiếu Khang Chương Hoàng hậu, sinh mẫu của Thánh Tổ được xác định có cấp đãi ngộ Phúc tấn khi còn là phi tần. Dưới hình thức này, nhiều hậu phi mãi khi qua đời mới có vị hiệu, dù thực tế khi còn sống thì họ đã có đãi ngộ cao, như Tuệ phi và Bình phi của Thánh Tổ.
Theo Thanh sử cảo và Quốc triều cung sử, sau đời Khang Hy thì chế độ nội cung mới được hoàn chỉnh:
Dưới hàng phi tần còn có Quan nữ tử (官女子), còn gọi Cung nữ tử, là các cung nữ được Hoàng đế lâm hạnh hoặc danh vị để gọi các phi tần bị giáng chức (như Mân Quý phi Từ Giai thị của Hàm Phong Đế). Ngoài ra, các Thị tỳ được lâm hạnh và sinh dục của các Hoàng tử cũng được gọi chung là Quan nữ tử, bên cạnh danh xưng thường thấy là Cách cách. Chiểu theo lệ định đương thời, trước đại hôn tuyển chọn 8 cung nữ có nhan sắc cùng phẩm hạnh dạy các bí thuật phòng the, gọi là Tư trướng (司帳), Tư tẩm (司寝), Tư nghi (司儀), Tư môn (司門).
Từ Hoàng quý phi đến Tần khi được sách phong đều có lễ nghi tiêu chuẩn, được hoàng thất xem là hậu phi chính thức cùng với quyền hạn ["Tá nội trị"], giúp Hoàng hậu trong việc xứ lý nội trị, dù thực tế họ không có quyền hành gì cụ thể mà chỉ là danh xưng hình thức. Còn từ bậc Quý nhân đến Đáp ứng không hạn định, quy định để tu tâm dưỡng tính, cần tu nội chức, riêng Quan nữ tử chỉ những cung nữ được sủng hạnh. Phi tần được tuyển chọn từ những Tú nữ (秀女) tham gia tuyển tú hoặc con gái các dòng dõi công thần, gọi là Bát Kỳ tuyển tú, hoặc từ cung nữ tấn phong đi lên.
Nội mệnh phụ nhà Triều Tiên ban đầu xếp đặt thứ bậc theo cách gọi của tiền triều Cao Ly, Thái Tổ định lệ gọi mẹ vua là Vương đại phi (왕대비, 王大妃), vợ chính tấn phong tước Phi, lại lấy các mỹ từ như "Tiết", "Hiển", "Tĩnh"... làm huy hiệu, gọi là Tiết phi (절비, 節妃), Hiển phi (현비, 顯妃) hay Tĩnh phi (정비, 靜妃), sau khi mất đều truy phong thụy hiệu Vương hậu (왕후, 王后). Nàng hầu gọi là Cung chúa (궁주, 宮主), Ông chúa (옹주, 翁主), đến năm Thái Tổ thứ 6 (1397) lại đặt thêm các danh vị Hiền nghi (현의, 賢儀), Thục nghi (숙의, 淑儀), Tán đức (찬덕, 贊德), Thuận thành (순성, 順成).
Thế Tông ban dụ định lại thứ bậc ở nội đình, vợ chính của vua đổi gọi làm Vương phi (왕비, 王妃), tôn kính gọi là Trung điện (중전, 中殿), kế dưới định lệ thứ bậc Nội mệnh phụ từ Chính nhất phẩm đến Tòng cửu phẩm, chia hai bậc chính là Nội quan và Cung quan, trong đó Nội quan tức là phi thiếp chính thức mà Cung quan là các chức vị Nữ quan. Nội quan thuộc hàng Tần được ban một mỹ hiệu khi sắc phong, như Hy tần (희빈, 禧嬪), Thục tần (숙빈, 淑嬪), Ánh tần (영빈, 暎嬪), từ Quý nhân đến Thục viên lấy họ mà phân biệt với những nội quan cùng danh phận. Sau án Trương Hy tần dùng thuật phù thủy mưu hại Nhân Hiển Vương hậu, Túc Tông ban chỉ dụ cấm các hậu cung trở thành Trung điện.
Các nội quan là thành viên của Vương thất:
Dưới nội quan còn có cung quan từ chính ngũ phẩm đến tòng cửu phẩm, họ là các Thượng cung (상궁, 尙宮) và Nội nhân (나인, 內人) giữ nhiệm vụ hầu hạ nhà vua và các thành viên trong vương thất. Các cung nữ được nhà vua sủng hạnh được tấn phong nội quan hoặc Thừa ân Thượng cung (승은상궁, 承恩尙宮), là danh phận tôn quý đứng đầu bậc cung quan. Bạo chúa Yên Sơn Quân hoang dâm vô độ, tuyển chọn trên khắp cả nước những giai nhân tuyệt sắc sung vào nội mệnh phụ, gọi là các nhạc kỹ Hưng thanh (흥청, 興淸), lại đặt thêm các bậc cung tần Thục hoa (숙화, 淑華), Lệ uyển (여완, 麗婉), Lệ viên (여원, 麗媛), Nhàn nga (한아, 閑娥). Trung Tông phản chính, các danh hiệu trên đều bị phế bỏ.
Nội mệnh phụ hầu hạ Vương thế tử ở Đông cung:
Thời kỳ Heian là đỉnh cao của trung ương tập quyền khi đạo Khổng Mạnh và những nét phồn hoa trong văn hiến du nhập từ nhà Đường với trung tâm quyền lực là dòng dõi Fujiwara quyền quý. Hoàng hậu và phi tần xuyên suốt thời kỳ Heian và kéo dài đến lịch sử cận đại đều là những hậu duệ của dòng tộc này.
Thời kỳ Mạc phủ Tokugawa, hậui cung thành Edo được biết đến với tên gọi Ōoku (Đại áo, おおおく, 大奥), một xã hội thu nhỏ tập hợp hơn một ngàn nữ nhân, được thành lập bởi Shōgun Hidetada. Từ người vợ chính thất tới các cung tần mỹ nữ, người hầu kẻ hạ trong Ōoku gọi chung là Áo nữ trung (おくじょちゅう, 奥女中), giữ nhiệm vụ phụng sự Tướng quân và gia tộc Tokugawa. Trong đó chỉ một số ít các cung nhân được hưởng ân huệ diện kiến Tướng quân, số còn lại chỉ là hạng hầu bộc chuyên nấu nướng, may vá và những việc nặng nhọc khác. Người vợ chính của Tướng quân gọi là Ngự đài sở (みだいどころ, 御台所) mang danh phận tôn quý nhất, đứng trên hết thảy trong Ōoku. Tuy vậy quyền lực thực tế lại thuộc về các nữ quan tổng quản, những người chịu trách nhiệm trông nom việc nội chính. Các cung nữ có nhan sắc cùng phẩm hạnh đoan trang theo hầu Ngự đài sở gọi là Trung lạp (ちゅうろう, 中臈), được cất nhắc làm nàng hầu của Shōgun. Nàng hầu sinh được con trai nối dõi gọi là Ngự bộ ốc dạng (おへやさま, 御部屋様), sinh con gái gọi là Ngự phúc dạng (おはらさま, 御腹様), hoặc trở thành vợ lẽ chính thức.
Vợ chính và hầu lẽ của Shōgun quá cố, theo điển lệ của giới quý tộc Nhật Bản, được Thiên triều và Mạc phủ ban phong các pháp danh, xuống tóc và lui về thiền tự tu hành như Thiên Chương viện (てんしょういん, 天璋院), chính thất của Iesada, Tĩnh Khoan viện cung (せいかんいんのみや, 静寛院宮),chính thất của Iemochi.
Các tổng quản phụng sự gia tộc Mạc chúa chịu trách nhiệm trông nom việc nội chính:
Đại Việt thông sử do Lê Quý Đôn biên soạn có đoạn viết:
“ | Quốc thống nước ta nếu vẫn noi gương người xưa, phong tục cũ chưa đổi, có Đinh Tiên Hoàng năm Thái Bình nguyên niên lập năm Hoàng hậu, một là Đan Gia (丹嘉), hai là Trinh Minh (貞明), ba là Kiểu Quốc (矯國), bốn là Cồ Quốc (瞿國), năm là Ca Ông (歌翁)[15]. Lê Đại Hành năm Thiên Phúc thứ ba lập Hoàng thái hậu nhà Đinh là Dương thị làm Đại Thắng Minh Hoàng hậu (大勝明), cùng với Phụng Càn Chí Lý (奉乾至理), Thuận Thánh Minh Đạo (順聖明道), Trịnh Quốc (鄭國), Phạm Hoàng hậu là năm Hoàng hậu[16]. Lý Thái Tổ lập sáu Hoàng hậu, duy có đích phu nhân gọi là Lập Giáo hoàng hậu (立教), quy chế xe kiệu và y phục khác hẳn với các cung khác[17], đến tháng 3 năm Thuận Thiên thứ bảy lại lập thêm ba Hoàng hậu nữa là Tá Quốc (佐國), Lập Nguyên (立元), Lập Giáo (立教)[18][19]. Lý Thái Tông năm Thiên Thành nguyên niên lập bảy Hoàng hậu, có các bà họ Mai, họ Đinh, họ Vương, đến tháng 7 năm Thông Thụy thứ hai lập người thiếp yêu làm Thiên Cảm Hoàng hậu (天感)[20]. Lý Nhân Tông năm Thần Vũ thứ tư lập hai Hoàng hậu là Thánh Cực (聖極), Chiêu Thánh (昭聖)[21], đến tháng 1 năm Hội Tường Đại Khánh thứ sáu lại lập thêm ba Hoàng hậu nữa là Lan Anh (蘭英), Khâm Thiên (欽天), Chấn Bảo (震寶)[22]. Đều vì vấn vương dục tình mà đề cao vị hiệu, bắt chước thói xấu của người đời Lưu Thông nhà Hán, Thiên Nguyên nhà Chu[23]. | ” |
.
Tục đa hậu của tiền nhân trái với lễ tiết rạch ròi giữa vợ đích, vợ thứ của đạo Khổng Mạnh, sử gia Lê Văn Hưu nhận xét:
“ | Trời đất bao dung, nhật nguyệt chiếu tỏ, mới sinh thành vạn vật, nảy nở muôn loài, như Hoàng hậu cùng với Thần Cực thành đôi giai ngẫu, là bậc mẫu nghi đứng đầu nội cung mà cảm hóa thiên hạ. Tự cổ chỉ lập Hoàng hậu một người coi việc nội trị, chưa từng nghe nói lập đến năm người. Tiên Hoàng không kê cứu cổ học, mà kẻ bề tôi đương thời lại không ai giúp sửa cho đúng, để chìm đắm trong tình riêng. Sau đến hai triều Lê, Lý cũng phần nhiều bắt chước làm theo, ấy cũng là từ Tiên Hoàng khởi xướng cái tệ rối loạn cương thường đó vậy. | ” |
.
Lý Thần Tông tháng 2 năm Thiên Thuận nguyên niên sách lập con gái của Điện tiền Chỉ huy sứ Lý Sơn là Lý thị làm Lệ Thiên Hoàng hậu (儷天皇后)[24][25]. Do sự tiếp thu đạo Khổng Mạnh và lễ giáo cung đình phương Bắc hoặc bản thân tục đa hậu của tiền nhân vốn gây nhiều hệ lụy, các bậc Thiên tử trời Nam sau này chỉ lập một Hoàng hậu, giữ nết thuận tòng mà coi việc nội trị, tề chỉnh nghi lễ chốn cung nghiêm.
Đại Việt sử ký toàn thư - Kỷ nhà Lý ghi lại, năm Càn Phu Hữu Đạo thứ ba, Thái Tông ban chỉ dụ đặt phẩm cấp các cung nữ, Hoàng hậu và phi tần mười ba người, Ngự nữ (御女) mười tám người, Nhạc kỹ (樂妓) hơn trăm người[26]. Nội cung có bậc Nguyên phi (元妃)[27] đứng đầu các cung thiếp, chúng thiếp có các Thứ phi (次妃), lại gọi là Thần phi (宸妃)[28], Quý phi (貴妃), Thục phi (淑妃), Đức phi (德妃), Hiền phi (賢妃)[29] và các Phu nhân (夫人). Hoàng hậu và phi tần lệ được ban hai mỹ từ làm huy hiệu, như Lý Thần Tông có ba người thiếp yêu là Cảm Thánh Phu nhân (感聖), Nhật Phụng Phu nhân (日奉), Phụng Thánh Phu nhân (奉聖).
Họ Trần lập Hoàng hậu đều lấy chị em con chú con bác cùng họ, như các bà Nguyên Thánh Thiên Cảm (元聖天感), Khâm Từ Bảo Thánh (欽慈保聖), Thuận Thánh Bảo Từ (順聖保慈), Hiến Từ Tuyên Thánh (憲慈宣聖) và Huy Từ Tá Thánh (徽慈佐聖) đều là con gái trong tông thất. Chế độ nội cung ban đầu xếp đặt thứ bậc theo cách gọi của nhà Lý. Anh Tông đặt thêm hiệu vị cho các giai nhân nơi lầu quỳnh gác ngọc, như Bố lãm (㚴㜮) họ Vương được yêu quý mà sinh Công chúa Huệ Chân. Hai chị em họ Lê là cô của Lê Quý Ly, với vẻ đẹp sắc nước hương trời được Minh Tông sủng ái hơn cả. Người chị là Minh Từ (明慈)[30], em gái cùng mẹ với bà Hiến Từ[31], được yêu chiều mà sinh ra Hiến Tông và Nghệ Tông, lấy làm Anh Tư Nguyên phi (英姿元妃)[32] đứng đầu các cung thiếp. Người em là Đôn Từ (惇慈)[33], được kén làm Sung viên (充媛), sinh ra Duệ Tông, sau được sách tặng Quang Hiến Thần phi (光憲宸妃)[34].
Các vua Nhà Lê sơ thường vì e ngại ngoại thích mà không lập Hoàng hậu, chỉ lấy bậc Quý phi đứng đầu giúp việc nội trị. Trong Đại Việt thông sử có đoạn viết: "Triều Lê ta gia pháp thuận đạo cương thường, kén chọn phi tần tất lấy con gái các dòng dõi công thần cùng con nhà hiền lương, mà lễ tiết phân biệt, tôn ty rạch ròi, không có cái tệ bất chính chốn buồng the của đời trước. Từ Thái Tổ không lập Hoàng hậu, lại trải năm đời vua, quen lấy đó làm phép thường. Các bà Cung Từ (恭慈), Tuyên Từ (宣慈), Quang Thục (光淑), Huy Gia (徽嘉) đều do tự quân lên nối ngôi mà tôn hiệu."
Từ Thái Tổ đến trước thời Hồng Đức, hậu cung dưới hoàng hậu định ra Tam Phi, Cửu Tần và Lục Chức:
[Tam phi; 三妃]: Nguyên phi (元妃), Thần phi (宸妃), Huệ phi (惠妃).
Lịch triều hiến chương loại chí cùng Khâm định Việt sử Thông giám cương mục ghi lại, Thánh Tông niên hiệu Hồng Đức (1470 - 1497) định rõ thứ bậc ở nội cung về danh phận cùng lệ cấp điền lộc, truy phong và ấm phong:
Nhà Nguyễn theo lệ cũ nhà Lê sơ, để khuyết Trung cung với nhiều lý do, trừ các bà Thừa Thiên, người vợ tào khang theo phò Thế Tổ từ thuở hàn vi và Nam Phương, Hoàng hậu cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam. Từ Thánh Tổ đến Hoằng Tông chỉ kén người hiền đức giữ ngôi Phi đứng đầu giúp việc nội trị. Riêng bà Lệ Thiên là trường hợp đặc biệt, với danh phận hoàng tẩu của tân quân Hiệp Hòa được tôn huy hiệu Khiêm Hoàng hậu (謙皇后) theo cố mệnh của tiên đế Dực Tông.
Nội các triều Nguyễn - Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ ghi lại, vào đầu thời "Quốc sơ", thứ bậc nội cung được quy định:
Chữ "Quốc sơ" này hay có nhìn nhận là đầu thời Gia Long, song theo nhiều biểu hiện nó ám chỉ khoảng đầu thời Chúa Nguyễn. Một điều chứng minh khác, là dưới triều Gia Long và Minh Mạng vẫn xuất hiện những danh vị hoàn toàn không thuộc quy định ở trên, như Mỹ nhân. Có lẽ việc thay đổi danh vị trong Nội đình thời Gia Long so với thời Chúa Nguyễn đã có diễn ra quy mô lớn, song không được ghi chính thức và tỉ mỉ lại như cuộc thay đổi toàn vẹn diễn ra cuối thời Minh Mạng.
Năm Minh Mạng thứ 17 (1836), Thánh Tổ có chỉ dụ định lại thứ bậc ở nội cung: "Nay theo gương cổ nhân, đặt chín bậc phi tần ở nội cung, khiến cho chốn khuê môn trật tự phân minh, phong hóa tôn nghiêm, nối đến muôn đời. Từ hàng nhất giai trở lên thì đặt Hoàng quý phi giúp Hoàng hậu là ngôi chủ quỹ trong cung, cai quản mẫu mực sáu viện, giúp việc nội trị, giữ nghiêm nội chính."
Từ đó, các triều đều thiết lập hạng mức cung giai cố định, dưới Hoàng quý phi đặt ra các bậc:
Bậc Tần trở lên, qua các triều sẽ định riêng các huy hiệu, trước sau sẽ phân cao thấp trong cùng một bậc. Ví dụ chính năm Minh Mạng thứ 17, Thánh Tổ đã chiếu định các huy hiệu như sau:
Cùng lúc ấy, Thánh Tổ sách phong truy tặng bà nguyên phối là Chiêu nghi (昭儀) Hồ thị làm Thần phi, lấy tên thụy là Thuận Đức (順德), tấn phong Hiền tần Ngô thị làm Hiền phi, còn từ Trang tần trở xuống gồm 26 người.
Các danh hiệu không cố định mà thay đổi qua các triều vua hoặc trong cùng một triều. Ngay trong năm Minh Mạng thứ 17, sau khi bàn định rõ 5 bậc đầu có thứ tự như vậy, thì vào năm Minh Mạng thứ 19 (1838), Thánh Tổ có chỉ dụ thay đổi trong bậc Ngũ giai như sau: "Nguyên trước định lệ cung giai rằng, Lệ tần, An tần, Hòa tần làm bậc Ngũ giai, nay đổi làm An tần, Hòa tần, Lệ tần".
Mặc dù nội cung triều Nguyễn được phân làm chín bậc nhưng số lượng cung tần mỹ nữ thời bấy giờ không nhiều. Thánh Tổ có số lượng phi tần nhiều nhất với 43 phi tần sinh hạ 162 người con được chép trong Nguyễn Phúc tộc thế phả, nhưng dưới niên hiệu Minh Mạng, cung tần mỹ nữ chốn nội cung, kể cả Nữ quan và Thị nữ có lẽ không quá 200 người. Như năm Minh Mạng thứ 9 (1828), Kinh kỳ lụt to, Thánh Tổ xuống dụ: "Từ xưa đến nay lụt mùa thu, chưa bao giờ như thế. Nước là tượng âm, hoặc giả âm khí u uất mà thành ra thế chăng? Hiện nay cung nhân có danh vị chỉ có 16, 17 người, tất cả các ban chưa quá trăm người, đủ để sai khiến trong cung mà thôi."
Hoàng tử nhà Nguyễn khi đến tuổi trưởng thành được ban tước Công, phải xuất phủ kén vợ gọi là nạp phi hay nạp thiếp. Nàng dâu được triều đình cưới hỏi gọi là Phủ thiếp (府妾), nàng hầu gọi là Đằng thiếp (藤妾) hay Dắng thiếp (媵妾).
Năm Minh Mạng thứ 17 (1836) đặt Lục thượng (六尚) do các nữ quan đảm nhiệm, định rõ chức phận giữ nội chính cho được tề chỉnh. Sang năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), đặt thêm các cơ quan nhỏ trong Lục thượng để cai quản tỉ mỉ. Hoàn thiện thêm chế độ Lục thượng gồm:
Lại đặt sáu cấp nữ quan:
Quốc vương của Vương quốc Thái Lan cũng có thiết lập chế độ tước vị riêng cho hậu cung của Ngài.
Trong hậu cung, Vương hậu là tước vị tôn quý nhất, nhưng lại có hai cấp bậc cao cấp là 「Rajini」và 「Rajadevi」, khi dịch sang tiếng Anh cả hai tước vị này thường được dịch thành ["Queen"] cùng ["Royal Consort"]. Những người đứng đầu đặc biệt sẽ có kính xưng "Somdet Phra" (สมเด็จพระ). Bên dưới còn tầng lớp khác nhau từ công chúa cao quý đến thường dân đều được xếp vào các cấp bậc riêng.
Cấp bậc | Danh xưng | Kính xưng | Ghi chú |
Vương chính hậu | |||
---|---|---|---|
Somdet Phra Akkhara Mahesi สมเด็จพระอัครมเหสี |
Somdet Phra Boromma Rajininat สมเด็จพระบรมราชินีนาถ |
Vương hậu bệ hạ (Her Majesty, the Queen) Somdet Phra Nang Chao + Tên + Phra Boromma Rajini Nat |
Trong đó Nat (นาถ) có nghĩa là "bảo bọc, che chở". Danh xưng dành cho Vương hậu từng nhiếp chính thay Quốc vương, mang ý nghĩa tôn vinh địa vị thực quyền. |
Somdet Phra Boromma Rajini สมเด็จพระบรมราชินี |
Vương hậu bệ hạ (Her Majesty, the Queen) Somdet Phra Nang Chao + Tên+ Phra Boromma Rajini |
Danh xưng dành cho Vương hậu khi quốc vương đã thụ lễ đăng quang. | |
Somdet Phra Rajini สมเด็จพระราชินี |
Somdet Phra Rajini + Tên | Danh xưng dành cho Vương hậu khi Quốc vương chưa thụ lễ đăng quang. | |
Vương thứ hậu cùng Vương phi | |||
Phra Mahesi พระมเหสี |
Somdet Phra Boromma Rajadevi
สมเด็จพระบรมราชเทวี |
Vương hậu bệ hạ (Her Majesty, the Queen) Somdet Phra Nang Chao + Tên + Phra Boromma Rajadevi |
Đây là danh xưng cao quý nhất nếu người này là xuất thân từ một công chúa vương thất.
Đây cũng từng là danh xưng chính thức chỉ dành cho Vương hậu của Quốc vương Chulalongkorn. |
Somdet Phra Akkhara Rajadevi
สมเด็จพระอัครราชเทวี |
Vương hậu bệ hạ (Her Majesty, the Queen) Somdet Phra Nang Chao + Tên + Phra Akkhara Rajadevi |
||
Phra Akkhara Rajadevi
พระอัครราชเทวี |
Vương phi điện hạ (Her Royal Highness, Princess, Royal Consort) Phra Nang Chao + Tên + Phra Akkhara Rajadevi |
||
Phra Vara Rajadevi
พระวรราชเทวี |
Vương phi điện hạ (Her Royal Highness, Princess, Royal Consort) Phra Nang Chao + Tên + Phra Vara Rajadevi |
||
Phra Rajadevi
พระราชเทวี |
Vương phi điện hạ (Her Royal Highness, Princess, Royal Consort) Phra Nang Chao + Tên + Phra Rajadevi |
||
Phra Nang Thoe
พระนางเธอ |
Thứ phi điện hạ (Her Royal Highness, Princess, Royal Consort) Phra Nang Thoe + Tên |
||
Phra Akkhara Chaya Thoe
พระอรรคชายาเธอ |
Thứ phi điện hạ (Her Highness, Princess, Royal Consort) Phra Akkhara Chaya Thoe + Tên |
||
Phra Raja Chaya Thoe
พระราชชายาเธอ |
Thứ phi điện hạ (Her Highness, Princess, Royal Consort) Phra Raja Chaya Thoe + Tên |
||
Ngự thiếp | |||
Phra Sanom พระสนม |
Chao Khun Phra
เจ้าคุณพระ |
Chao Khun Phra + Tên | Những người thụ tước vị này gồm có:
Trong suốt thời gian mang thai, các phi tần sẽ được gọi bằng tước vị Chao Chom Manda + Tên (Manda có nghĩ là "mẹ"). Danh xưng Phra Bắt đầu sử dụng thời Rama VI |
Chao Khun Chom Manda
เจ้าคุณจอมมารดา |
Chao Khun Chom Manda + Tên | ||
Chao Chom Manda
เจ้าจอมมารดา |
Chao Chom Manda + Tên | ||
Chom Manda
จอมมารดา |
Chom Manda + Tên | ||
Chao Chom
เจ้าจอม |
Chao Chom + Tên | ||
Phra
พระ |
Phra + Tên |
Nói đến lịch sử Thổ Nhĩ Kỳ, đa phần đều đang chỉ đến Đế quốc Ottoman. Hậu cung của Ottoman được gọi là Harem-i Hümâyûn (حرم همايون), cũng gọi Harām (حَرَام), có nghĩa là "Nơi cấm", tọa lạc một phần trong Cung điện Topkapı. Chỉ có Sulṭān, vị chúa tể cai trị đế quốc và con trai của ngài mới được phép đặt chân tới Harām. Sự cấm kỵ khắc nghiệt tới mức nhà chép sử Dursun Bay ghi lại:「"Nếu mặt trời là giống đực thì nó cũng bị cấm soi sáng vào hậu cung"」. Thánh luật của nhà tiên tri Muhammad nghiêm cấm đàn ông theo Hồi giáo có nhiều hơn 4 người vợ, nhưng các Sultan với đặc quyền của bậc vua chúa là ngoại lệ, coi những cung tần mỹ nữ là thước đo giàu sang và quyền lực.
Bên trong Harām cũng có hệ thống thứ bậc chặt chẽ và mỗi danh vị đều có tên gọi riêng. Quyền lực tối cao nơi cung cấm thuộc về mẹ của Sulṭān gọi là Válıde Sulṭān (والده سلطان), giữ trách nhiệm trông nom, cất đặt việc nội trị với phụ tá là các nội quan cao cấp Kapı Ağa và Kızlar Ağası. Đối với hôn phối của Sultan, trước thời kỳ Suleiman I, chỉ có danh xưng Khatun (خاتون) để gọi các phi tần của một Sultan, không phân chính và thứ mà chỉ ai trước hoặc có con trai lớn thì địa vị tự nhiên sẽ cao. Bắt đầu từ Suleiman, trong các phi tần của Sultan có một người sẽ là Ḫāṣekī Sulṭān (خاصکى سلطان) - vị trí đứng đầu tất cả, tương đương Hoàng hậu, cú pháp đầy đủ của tước hiệu này là 「Devletlû İsmetlu (tên hiệu được ban) Haseki Sultân Aliyyetü'ş-Şân Hazretleri」. Và người đầu tiên có được tước hiệu này là Hurrem Sultan - một người phụ nữ quyền thế khởi đầu cho thời kỳ các Nữ Sultan chuyên chính ở Ottoman kéo dài đến trọn 2 thế kỉ, được gọi là 「Kadınlar saltanatı」.
Từ sau đời Ahmed III, khoảng đầu thế kỉ 18, triều đình Ottoman không còn dùng tước hiệu Ḫāṣekī Sulṭān để gọi các người vợ chính nữa, đến cả thành tố Sulṭān cũng không dùng cho phi tần nữa mà chỉ là tước hiệu riêng cho mẹ của Sultan. Do vậy triều đình Ottoman quyết định lập ra 3 bậc tước vị mới, trong đó gọi là vợ tức là Kadın (قادین), mà thiếp có hai hạng là Ikbal và Gözdes - đều được gọi chung là các Hanım (پیوسته). Cả ba bậc này đều chia ra lần lượt 8 đẳng, 6 đẳng và 5 đẳng riêng:
Các vị Kadın được gọi hẳn là vợ, đây là bởi vì chế độ Hồi giáo của Ottoman cho phép một người đàn ông có thể cưới nhiều vợ lẫn nạp nhiều thiếp, trong đó Sultan có thể cưới được những người "vợ" - tức được pháp luật công nhận - từ 4 người đến 8 người, gấp đôi một người đàn ông bình thường có thể đạt tới. Những người vợ này chỉ có thứ tự khác nhau, còn như quyền lợi là như nhau, con cái do họ sinh ra đều được xem là "Con vợ cả" chính thức.
Chữ Ikbal trong ngôn ngữ Ottoman có nghĩa là "May mắn", còn Gözdes là "Sủng ái", hai hạng này đều chịu sự sủng ái của Sultan hoặc phải mang thai mới được gia phong. Dưới nữa là Cariye (دېدەك) - nghĩa là "Nữ nô", đây là những Nữ tỳ phục vụ trong Harām, đối tượng là từ Sultan đến Válıde Sulṭān thậm chí là con cái của Sultan. Thân phận thấp kém nhất, tuy nhiên các Cariye cũng là hạng người đông đảo nhất. Nếu làm việc tốt, họ có thể trở thành những Thị hầu cấp cao có đãi ngộ tốt hơn như Kalfa và Usta, mặc khác họ cũng có thể được sủng hạnh mà làm phi tần. Sau khoảng 9 năm phục vụ, họ được trả tự do.
Lịch sử Ấn Độ phức tạp, chủ yếu vì vùng lục địa này bị chia cắt bởi nhiều tiểu vương quốc khác nhau, lại có thêm sự tách biệt giữa các vùng theo Hồi giáo Sunni lẫn Ấn Độ giáo. Triều đại Mughal được biết đến nhiều nhất trong lịch sử Ấn Độ, là triều đại theo Hồi giáo Sunni, do đó một hoàng đế có thể có nhiều vợ và thiếp.
Hậu cung của Mughal được gọi là ḥarīm (حريم), có nghĩa là "Nơi thiêng liêng không thể xâm phạm", một từ cùng gốc với từ Harām của Đế quốc Ottoman. Do theo chế độ Hồi giáo, một Hoàng đế Mughal có nhiều vợ lẫn thiếp. Vợ, hay "Thê tử", tức là người phụ nữ theo luật pháp trở thành hôn phối của Hoàng đế, xuất thân đa phần là Công chúa từ chính Hoàng tộc Timurid hoặc Vương thất hay Quý tộc Ấn Độ bản địa. Người vợ cả của Hoàng đế được trao cho danh xưng Padshah Begum (پادشاہ بیگم), trong đó thành tố Padshah có nghĩa là "Đứng đầu", còn Begum là một danh hiệu cổ dành cho những người phụ nữ cao quý xuất thân dòng dõi Vua chúa. Dù cho có nhiều vợ, chỉ có một người đương thời là có thể được ban danh hiệu Padshah Begum, do đó danh hiệu này rất tương ứng với Hoàng hậu của khối Đông Á. Bình thường ḥarīm của một đời hoàng đế có hơn 5.000 phụ nữ, ngoài thê thiếp thì chính là mẹ và chị em gái của hoàng đế.
Những người vợ của hoàng đế cũng có hai dạng, dạng đầu tiên là có thể kế thừa danh hiệu Padshah Begum, có thể định dạng là "Chính thê"; mà dạng thứ hai đều là các người vợ do giao dịch hôn nhân hoặc là xuất thân từ những nhà Ấn Độ bản địa đã bị triều đình Mughal đánh bại, cuốn sách Royal Mughal Ladies and Their Contributions của Soma Mukherjee nhận định họ là dạng "Thứ thê", đều xuất thân là công chúa của các gia tộc Ấn Độ giáo bị thua bởi chiến tranh.
Tiếp đến là hàng Thị thiếp, họ không được xem là "Vợ hợp pháp" của hoàng đế, tuy nhiên lại là thành phần đông đảo nhất trong ḥarīm, bởi vì họ đều là món quà do các chư hầu của Hoàng đế dâng lên, xuất thân của họ rất đa dạng. Dẫu vậy, bằng sự sủng ái của Hoàng đế, một Thị thiếp cũng có thể có địa vị cao quý không khác gì một yhê tử của Hoàng đế, những người con của thị thiếp cũng đều được đối xử ngang vai với người con củayThê tử. Do đó trừ xuất thân đặc thù hoặc chính thức có danh hiệu Padshah Begum, hậu cung của Đế quốc Mughal tương đối hỗn loạn, hoàn toàn phụ thuộc vào sự sủng ái của Hoàng đế. Dẫu sự sủng ái của Hoàng đế ảnh hưởng đến địa vị của Thê thiếp trong ḥarīm, song theo ghi nhận của Soma Mukherjee, bọn họ không thể tùy tiện thể hiện sự ghen ghét và ganh đua lẫn nhau, bằng không sẽ bị trị tội và hoàn toàn mất đi cơ hội được sủng ái. Cũng như chế độ của Ottoman, mẹ của Hoàng đế là những "Quốc mẫu" thật sự - người phụ nữ có vị trí tôn quý nhất. Chỉ khi mẹ của Hoàng đế qua đời, người giữ danh hiệu Padshah Begum mới có thể nắm quyền lực, mà danh hiệu này không chỉ dành cho Chính thê của Hoàng đế mà còn truyền cho chị em gái hoặc con gái của Hoàng đế kế thừa.
Chế độ Mughal ngoại trừ danh hiệu Padshah Begum thì cũng không có các danh hiệu thực sự cụ thể dành cho Thê thiếp, kể cả mẹ của Hoàng đế. Thường thấy nhất, từ Chính thê, Thứ thê, Thị thiếp đến con gái của Hoàng đế đều có thành tố Begum sau tên hiệu chính thức, ngoài ra còn có Bai, Mahal, Nazuk Badan,... Tuy nhiên, đa phần lớn trong lịch sử Mughal, gia phong tước hiệu cho Thê thiếp hoặc Đế mẫu chỉ là mỹ hiệu tùy hứng mà không có thứ tự như chế độ Ottoman. Ví dụ Hamida Banu Begum, mẹ của Hoàng đế Akbar, được con trai dâng tôn hiệu 「Maryam Makani」, có nghĩa là "Đức mẹ của hai Thế giới", mẹ của Hoàng đế Shah Jahan là Jagat Gosain được tôn xưng 「Bilqis Makani, có nghĩa là "Quý phu nhân của nơi Thần thánh Pure Abodes", lại như Hoàng hậu Nur Jahan của Hoàng đế Jahangir ban đầu có phong hiệu 「Nur Mahal」 có nghĩa là "Ánh sáng của Hoàng cung", sau lại chuyển thành như hiện tại có nghĩa "Ánh sáng của Thế giới",... Những tước hiệu này hoàn toàn không có quy luật về địa vị, đơn giản là mỹ hiệu.