TheFatRat | |
---|---|
Tên khai sinh | Christian Friedrich Johannes Büttner |
Tên gọi khác | TheFatRat |
Sinh | 1 tháng 6, 1979 Göttingen, Tây Đức |
Thể loại | |
Nghề nghiệp |
|
Nhạc cụ | |
Năm hoạt động | 2001–nay |
Hãng đĩa |
|
Hợp tác với | |
Christian Friedrich Johannes Büttner (sinh ngày 1 tháng 6 năm 1979), được biết đến với nghệ danh là TheFatRat, là một DJ, nhà sản xuất thu âm và nhạc sĩ người Đức. Thể loại của anh thường được mô tả là "glitch-hop".[1] Anh được biết đến nhiều nhất với các bài hát như Unity, Monody, The Calling, Fly Away và đĩa mở rộng năm 2016 Jackpot, đạt thứ 23 trên bảng xếp hạng Billboard Dance/Electronic Albums.[2] Anh đạt vị trí thứ 15 trên bảng xếp hạng Billboard's Next Big Sound vào tháng 2 năm 2015.[3]
Büttner bắt đầu sản xuất âm nhạc vào năm 2001 dưới tên thật của mình. Anh bắt đầu bằng cách làm nhạc nền cho truyền hình, đài phát thanh, quảng cáo và sản xuất nhạc cho DJ.[4]
Năm 2010, Büttner sản xuất bài hát Mignon Mignon cho René la Taupe, bài hát đã trở thành đĩa đơn quán quân ở Pháp.[5] Vào khoảng thời gian đó, anh cũng sản xuất bài hát "Audubon Ballroom" trong album Food & Liquor II: The Great American Rap Album Pt. 1 của Lupe Fiasco, đứng ở vị trí thứ 5 trên Billboard 200.[6]
Vào tháng 7 năm 2011, anh bắt đầu hoạt động âm nhạc solo dưới biệt danh TheFatRat, một biệt danh được đặt cho anh khi còn nhỏ. Sự nghiệp của anh bắt đầu với việc phát hành EP đầu tiên của mình, Do Be Do Be Do.[4]
Đến năm 2016, nhạc của Büttner đã được sử dụng trong hơn 1,5 triệu video trên YouTube.[7] Đĩa đơn "Unity" của anh nằm trong album Sounds of Syndication Vol. 1[8] được quản lý bởi Tom Cassell, một trong những streamer được đăng ký nhiều nhất trên Twitch.
Vào tháng 11 năm 2016, Büttner đã phát hành EP thứ hai của mình, Jackpot trên hãng đĩa Universal Music.[7] EP đạt vị trí thứ 23 trên bảng xếp hạng Billboard Dance/Electronic Albums.[2] Vào tháng 12 năm 2016, Büttner bắt đầu thành lập hãng thu âm, The Arcadium, hợp tác với Universal Music.[9]
Vào tháng 6 năm 2017, anh phát hành đĩa đơn "Fly Away" với sự góp giọng của ca sĩ Anjulie. Vào tháng 7, anh đã biểu diễn tại Lễ hội Electric Forest.[10] Vào tháng 10 năm 2017, anh phát hành đĩa đơn "Oblivion" với sự góp mặt của ca sĩ Lola Blanc.[11]
Vào tháng 3 năm 2018, anh phát hành đĩa đơn "MAYDAY".[12] Vào tháng 7 năm 2018, anh đã phát hành "Warrior Songs", một gói âm nhạc cho trò chơi điện tử Dota 2, đã được cung cấp trong trò chơi kể từ ngày 13 tháng 9 năm 2018, theo Matthew "Cyborgmatt" Bailey, giám đốc hoạt động của Team Secret.[13]
Vào tháng 12 năm 2018, anh đã đăng một video về cách hệ thống Content ID của YouTube bị "hỏng", khi một người dùng ẩn danh có tên là Ramjets đã giành hết tất cả thu nhập cho bài hát "The Calling" của anh và YouTube đã từ chối giải quyết tranh chấp.[14][15][16] Xác nhận quyền sở hữu đã bị YouTube xóa sau đó.[17]
Vào tháng 2 năm 2020, Redbull.com đã thực hiện một bộ phim tài liệu dài 10 phút về Büttner và sự nghiệp của anh với tựa đề, TheFatRat: Mọi Thứ Bạn Từng Muốn Biết Về Anh Ấy. Họ đã phát hành điều này trong bài báo của họ, "TheFatRat: Gặp gỡ DJ EDM đã nâng âm nhạc trò chơi điện tử lên thành nghệ thuật cao."[18]
Vào ngày 7 tháng 2 năm 2020, Büttner đã phát hành một video âm nhạc viễn tưởng trên YouTube với sự tham gia của chính anh và Maisy Kay cho bài hát của Büttner, "The Storm", mà anh đã biểu diễn cùng Kay.[19] Video âm nhạc được quay ở Iceland, với hang Surtshellir vào ngày đầu tiên, núi Hekla vào ngày thứ hai và Hjörleifshöfði vào ngày thứ ba và cuối cùng. Đi kèm với video âm nhạc là một trò chơi dành cho thiết bị di động có tên The Storm - Interactive, nơi người ta có thể chơi qua câu chuyện của video.[20]
Năm | Tiêu đề | Thông tin |
---|---|---|
2018 | Warrior Songs (Từ Dota 2) |
|
2021 | Parallax |
|
Năm | Tiêu đề | Thông tin | Thứ hạng |
---|---|---|---|
US Dance [2] | |||
2011 | Do Be Do Be Do |
|
– |
2016 | Jackpot |
|
23 |
2020 | Classics Remixed |
|
TBA |
Năm | Bài nhạc | Hợp tác với | Album/EP | Label | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
2011 | Some Body[26] | — | Do Be Do Be Do EP | Tự phát hành | |||||||
Less Than Three[27] | — | ||||||||||
Do Be Do Be Do[28][29] | — | ||||||||||
2013 | Splinter[30][31] | — | Đĩa đơn, không phải album | Spinnin' Records | |||||||
The Arcadium | |||||||||||
Dancing Naked[32][33] | — | The Arcadium | |||||||||
Melofaktur UG | |||||||||||
2014 | Infinite Power![34][35] | — | Rocket League OST | Melofaktur UG | |||||||
Windfall[36][37] | — | Đĩa đơn, không phải album | The Arcadium | ||||||||
Tasty | |||||||||||
Xenogenesis[38] | — | The Arcadium | |||||||||
Tasty | |||||||||||
Trap Nation | |||||||||||
2015 | Never Be Alone[41][42][43] | — | The Arcadium | ||||||||
Tasty | |||||||||||
Unity[44][45] | — | The Arcadium | |||||||||
Melofaktur UG | |||||||||||
Time Lapse[46][47] | — | The Arcadium | |||||||||
Melofaktur UG | |||||||||||
Telescope[48][49] | — | Seeking Blue | |||||||||
Monody[50][51][52][53] | Laura Brehm | The Arcadium | |||||||||
MrSuicideSheep | |||||||||||
Melofaktur UG | |||||||||||
2016 | The Calling[54][55] | Laura Brehm | The Arcadium | ||||||||
Melofaktur UG | |||||||||||
No No No[56][57] | — | The Arcadium | |||||||||
Melofaktur UG | |||||||||||
Youtubers Life Rap[58][59] | Kronno Zomber | The Arcadium | |||||||||
Melofaktur UG | |||||||||||
Jackpot | — | Jackpot EP[60] | Universal Music Group | ||||||||
Epic | — | ||||||||||
Prelude | — | ||||||||||
Elegy | — | ||||||||||
2017 | Fly Away[61][62] | Anjulie | Đĩa đơn, không phải album | ||||||||
Oblivion[63][64] | Lola Blanc | ||||||||||
2018 | Mayday[65][66] | Laura Brehm | |||||||||
2019 | Chosen[67] | Anna Yvette | |||||||||
Laura Brehm | |||||||||||
Solitude[68] | Slaydit | ||||||||||
Sunlight[69] | Phaera | The Arcadium | |||||||||
Stronger[70] | Slaydit | Monstercat | |||||||||
Anjulie | |||||||||||
Close To The Sun[71] | Anjulie | The Arcadium | |||||||||
recordJet | |||||||||||
Rise Up[72] | — | Enter Records | |||||||||
Virgin Records | |||||||||||
2020 | The Storm[73] | — | The Arcadium | ||||||||
Electrified[74] | — | ||||||||||
We'll Meet Again[75] | Laura Brehm | The Arcadium | |||||||||
recordJet | |||||||||||
Rule The World[76] | AleXa | The Arcadium | |||||||||
Kobalt Music Publishing | |||||||||||
2021 | Hiding In The Blue[77] | RIELL | PARALLAX | The Arcadium | |||||||
Arcadia[78] | — | ||||||||||
Pride & Fear[79] | RIELL | ||||||||||
Upwind[80] | — | ||||||||||
Our Song[81] | Cecilia Gault | ||||||||||
Violet Sky[82] | Cecilia Gault | ||||||||||
Warbringer[83] | Everen Maxwell | The Arcadium | |||||||||
Lindsey Stirling | recordJet | ||||||||||
Fire[84] | — | The Arcadium | |||||||||
Love It When You Hurt Me[85] | Anjulie | ||||||||||
Let Love Win[86] | Anjulie | ||||||||||
2022 | Ghost Light[87] | EVERGLOW | Đĩa đơn, không phải album | The Arcadium | |||||||
Pharisade | |||||||||||
Back One Day (Outro Song)[88] | — | The Arcadium | |||||||||
Pharisade | |||||||||||
2023 | Monkeys[89] | — | The Arcadium | ||||||||
Out Of The Rain [Chapter One] | Shiah Maisel | Pharisade | |||||||||
"-" biểu thị bài nhạc do chính TheFatRat làm, không hợp tác với các nghệ sĩ khác. |
Năm | Nghệ sĩ | Tiêu đề |
---|---|---|
2012 | Flo Rida | Good Feeling |
Avicii | Levels | |
The Knocks | Brightside | |
Gotye | Somebody That I Used to Know | |
Foster the People | Don't Stop (Color on the Walls) | |
Martin Solveig | The Night Out | |
Static Revenger | Turn The World On | |
Pacific Air | Stop Talking | |
Chris Brown | Don't Wake Me Up | |
2013 | The Knocks | The Feeling |
Diplo | Set It Off | |
Grey | The Tide | |
Atlas Genius | So Electric: When It Was Now (The Remixes) | |
Strange Talk | Picking Up All The Pieces | |
Icona Pop | All Night | |
2015 | Sound Remedy | We Are The Dream |
2018 | MarieMarie | Salt Is My Sugar |