![]() | Bài viết này hiện đang được thành viên Yuki Shiromita (thảo luận · đóng góp) cho là bài chất lượng kém vì lý do: trình bày cẩu thả, không nguồn |
Triều phục | |||||||
![]() Tranh vẽ Hoàng đế Càn Long mặc triều phục. | |||||||
Tên tiếng Nhật | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Kanji | 礼服 | ||||||
Kana | れいふく | ||||||
Kyūjitai | 禮服 | ||||||
Shinjitai | 礼服 | ||||||
| |||||||
Tên tiếng Trung | |||||||
Phồn thể | 朝服、朝衣、具服 | ||||||
Giản thể | 朝服、朝衣、具服 | ||||||
| |||||||
Tên tiếng Triều Tiên | |||||||
Hangul | 조복 | ||||||
Hanja | 朝服 | ||||||
|
Triều phục, còn gọi là triều y hoặc cụ phục, là một loại quan phục của các quốc gia như Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam, Nhật Bản và Lưu Cầu. Chế độ triều phục hình thành vào cuối thời nhà Hán, thường được hoàng đế và các đại thần mặc trong các buổi thiết triều, tức là y phục khi hoàng đế "thượng triều" và y phục triều hội của bá quan. Đôi khi cũng bao gồm y phục đặc biệt khi vào triều của hậu phi, mệnh phụ và nữ quan.
Tùy vào quy mô và thời điểm của buổi triều hội mà yêu cầu về việc mặc triều phục cũng khác nhau. Ví dụ, vào các buổi triều hội lớn như Tết Nguyên đán, Đông chí thời nhà Đường, triều phục bắt buộc phải chỉnh tề và đầy đủ các loại trang sức, phụ kiện. Sau khi triều hội kết thúc, trong những dịp thông thường thì không nên mặc triều phục.
Ngoài ra, triều phục cũng có thể được sử dụng trong các đại lễ quan trọng.
Triều phục xuất hiện sớm nhất từ thời Tiên Tần của Trung Quốc. Theo sách Chu Lễ – Xuân quan – Ty phục ghi chép: "Khi thiết triều thì mặc y phục đội mũ da (bì biện phục)." Vào thời Đông Hán, áo bào bắt đầu được dùng làm triều phục, và từ thời Tam Quốc trở đi bắt đầu hình thành chế độ quy định cụ thể.
Theo Hậu Hán Thư – Dư phục chí hạ: y phục của thiên tử tuân theo chế độ thâm y (áo dài), có áo bào, theo màu sắc của năm tiết trời; còn các bậc dưới thiên tử thì“đều dùng áo bào chế định chung, áo đơn, viền đen ở cổ, tay áo trong – được gọi là triều phục.
Từ thời Bắc triều mới bắt đầu gọi là "cụ phục", đến thời Đường tiếp tục sử dụng tên gọi này.
Theo Tân Đường Thư – Xa phục chí: Cụ phục là y phục dùng trong các dịp như bái tế, triều hội, dâng tấu và những sự kiện trọng đại của quan viên từ ngũ phẩm trở lên, cũng gọi là triều phục. Bao gồm mũ, trâm cài, áo đơn màu tía (giáng sa), áo trong bằng vải trắng, cổ và tay áo màu đen, viền áo, tà áo và gấu áo màu đen; váy trắng, áo lót, khóa áo bằng vàng, đai thắt giả, cổ áo cong, tâm áo vuông, mảnh che đầu gối bằng vải tía, tất trắng, giày da đen, kiếm, tua đeo, bao đeo, đồ đeo đôi, dải lụa đôi.
Triều phục của văn quan và võ quan khá giống nhau, chủ yếu phân biệt bằng mũ và đồ trang sức. Theo Vũ Đức lệnh, các loại mũ bao gồm: viễn du quan, tiến hiền quan, vũ biện đại quan, giải trãi quan. Nếu mũ giống nhau, thì phân biệt bằng đồ trang sức: Từ ngũ phẩm trở lên đeo trâm ngọc đôi, trang sức vàng; từ tam phẩm trở lên thêm trang sức quý; dưới lục phẩm thì không có trang sức, nghĩa là quan từ lục phẩm trở xuống không được đeo kiếm, tua, dải lụa.
Chế độ triều phục được hình thành từ thời Bắc triều đến Đường đã ảnh hưởng lớn đến các triều đại sau như Ngũ Đại Thập Quốc, Tống, Nguyên và Minh, tuy cũng có những thay đổi nhất định.
Về triều phục nữ, ghi chép đầu tiên xuất hiện từ thời Đông Hán, trong Hậu Hán Thư chép rằng các phu nhân của quan nhị thiên thạch trở lên đến hoàng hậu đều mặc tằm y (trang phục dùng trong lễ nuôi tằm) làm triều phục. Thời Tam Quốc từng bị gián đoạn, sau đó các triều đại như Tấn và Nam triều tiếp tục dùng “tằm y” làm triều phục cho hoàng hậu và mệnh phụ. Ở Bắc Tề, triều phục của các cấp mệnh phụ giống với quan phục.
Từ thời Đường đến Minh, tuy không thấy rõ chế độ triều phục nữ trong các sách như Dư phục chí, nhưng các trang phục dành cho hoàng hậu, phi tần, nữ quan trong các dịp triều hội lớn hay nghi lễ trong cung đều có quy định rõ ràng, về mặt chức năng cũng được xem là triều phục. Ví dụ, trong Tư Trị Thông Giám có nhắc đến Trưởng Tôn Hoàng hậu thời Đường mặc triều phục, được hiểu là “hội phục” – y phục của hoàng hậu trong các dịp hội triều quan trọng.
Triều phục thời nhà Thanh không trực tiếp kế thừa triều phục thời Minh, mà được cải biến từ trang phục mang ảnh hưởng của người Mông Cổ, sau đó kết hợp với đặc trưng riêng như viền bằng da chồn, tạo thành triều phục viền chồn đặc sắc của nhà Thanh.