Tuân Oanh 荀罃 | |||||
---|---|---|---|---|---|
Đại phu nước Tấn | |||||
Tông chủ họ Trí | |||||
Tại vị | 583 TCN-560 TCN | ||||
Tiền nhiệm | Tuân Thủ | ||||
Kế nhiệm | Tuân Doanh | ||||
Chính khanh nước Tấn | |||||
Tại vị | 566 TCN-560 TCN | ||||
Tiền nhiệm | Hàn Quyết | ||||
Kế nhiệm | Tuân Yển | ||||
Thông tin chung | |||||
Sinh | Trung Quốc | ||||
Mất | 560 TCN Trung Quốc | ||||
Hậu duệ | Tuân Sóc | ||||
| |||||
Tước hiệu | Trí Vũ tử | ||||
Thế gia | Họ Trí | ||||
Thân phụ | Tuân Thủ |
Tuân Oanh [1] hay Tuân Dinh [2] (chữ Hán: 荀罃, ? – 560 TCN), tên tự là Tử Vũ, khanh đại phu đời Xuân Thu, nhà quân sự, nhà chính trị kiệt xuất, có công lớn khôi phục bá nghiệp của nước Tấn thời Tấn Điệu công.
Tổ tiên của Tuân Oanh mang họ Cơ, là công tộc của nước Tấn. Tấn Vũ công diệt nước Tuân, ban cho đại phu Nguyên Thị Ảm, đổi làm họ Tuân. Về sau Tuân Tức tuẫn nạn cùng Trác Tử, Tấn Văn công lấy cháu nội trưởng của Tuân Tức là Tuân Lâm Phủ làm Trung hành tướng.
Tấn Thành công sủng hạnh người em nhỏ của Lâm Phủ là Thủ, ban cho đất Trí (智), còn gọi là Tri (知), được lập riêng tông miếu. Tuân Thủ trở thành tổ của họ Trí hay Tri, còn Tuân Lâm Phủ trở thành tổ của họ Trung Hành. Vì vậy Tuân Thủ còn gọi là Trí Thủ hay Tri Thủ, thụy là Trí Trang tử hay Tri Trang tử; Tuân Oanh còn gọi là Trí Oanh, thụy là Trí Vũ tử. Sử cũ đều gọi ông bằng thụy hiệu, dân gian quen gọi là Tuân Oanh.
Năm 597 TCN, hai nước Tấn – Sở đối trận ở đất Bật [3], Tuân Thủ làm Hạ quân đại phu, mang theo Tuân Oanh tham chiến. Giữa các tướng Tấn nổ ra tranh cãi, Trung quân tướng Tuân Lâm Phủ cầm đầu phe đa số muốn rút quân, Trung quân tá Tiên Cốc cầm đầu phe thiểu số đòi quyết chiến. Ngụy Kĩ và Triệu Chiên xin đi hòa đàm với Sở, Tuân Lâm Phủ đồng ý nhưng rồi nhận ra 2 người này thuộc phe chủ chiến, vội phái cháu trai Tuân Oanh đuổi theo gọi bọn họ trở lại.
Không ngờ 2 người Ngụy, Triệu đã kịp chọc giận quân Sở rồi bỏ trốn, còn lính tuần tiễu Sở trông thấy cánh quân của Tuân Oanh, thì cho là quân Tấn đến đánh. Sở Trang vương đang giận, lập tức phát động toàn quân công kích. Tuân Oanh trở tay không kịp, bị công tử Phụ Cơ bắt sống.
Quân Tấn cuống cuồng bỏ chạy, sang đến bờ bắc Hoàng Hà, anh em Tuân Lâm Phủ gặp nhau, mới biết Tuân Oanh đã mất tích. Tuân Thủ đưa thân binh họ Tuân quay lại bờ nam nhưng không tìm được. Không cam tâm trở về tay trắng, Tuân Thủ xông vào quân Sở, bắn chết và cướp thây của Liên doãn Tương Lão, bắn bị thương và bắt sống công tử Cốc Thần (còn gọi là Hộc Thần, con trai Sở Trang vương).
Những năm sau đó, Sở Trang vương thừa thắng tranh giành Trung Nguyên, quan hệ Tấn - Sở vô cùng căng thẳng.
Năm 591 TCN, Sở Trang vương mất, không lâu sau, Sở Cung vương[4] nối ngôi, nước Sở dần suy yếu; còn Tuân Thủ thăng làm Trung quân tá, tức Thứ khanh của nước Tấn, tình hình bắt đầu chuyển biến. Trong khoảng thời gian này, Trung quân tướng, tức Chính khanh của nước Tấn là Khích Khắc quay sang đối địch với nước Tề ở phía đông, quan hệ Tấn – Sở trở nên hòa hoãn.
Năm 588 TCN, dựa vào đề xuất của Khước Chí, Tuân Thủ xin dùng thi thế Tương Lão và công tử Cốc Thần đổi lấy Tuân Oanh, Sở Cộng vương nhận lời.
Trước khi Tuân Oanh lên đường trở về nước Tấn, Tả truyện chép lại cuộc đối thoại phi thường giữa ông và Sở Cộng vương.
Sở Cộng vương dùng hậu lễ mà đưa Tuân Oanh về Tấn.
Sau khi trở về, Tuân Oanh lập tức được Tuân Thủ lập làm Tông tử của họ Trí. Năm 583 TCN, Tuân Thủ qua đời, Tuân Oanh thay cha làm Hạ quân tá.
Năm 578 TCN, ông tham gia trận Ma Toại, đánh bại quân Tần. Năm 575 TCN, 2 nước Tấn – Sở giao chiến ở Yên Lăng, Tuân Oanh soái lĩnh quân riêng đánh dẹp các nước phụ thuộc của Sở là Trần, Thái.
Năm 573 TCN, Trung quân tướng Loan Thư và Trung quân tá Tuân Yển (cháu nội Tuân Lâm Phủ) thích sát Tấn Lệ công, sai Tuân Oanh đến Thành Chu nghênh lập cháu nội của Tấn Tương công là Tôn Chu, chính là Tấn Điệu công. Không lâu sau, Tuân Oanh được thăng làm Trung quân Tá (Tuân Yển giáng làm Thượng quân tướng).
Mùa đông năm ấy, Sở Cộng vương và Trịnh Thành công đánh Tống, vây khốn Bành Thành. Tháng 6 năm 571 TCN, Trịnh Thành công, người kiên quyết trung thành với Sở, qua đời. Tháng 7, Tuân Oanh hội quân các nước Tề, Tống, Lỗ, Vệ, Tào, Chu, Đằng, Tiểu Chu… tại đất Thích của nước Vệ bàn kế phạt Trịnh. Khanh sĩ nước Lỗ là Trọng Tôn Miệt (tức Mạnh Tôn Miệt, thụy là Mạnh Hiến Tử) đề xuất đắp thành Hổ Lao để khống chế nước Trịnh.
Được sự đồng ý của khanh sĩ nước Tề là Thôi Trữ (thụy là Thôi Vũ Tử), mùa đông năm ấy, Tuân Oanh cùng khanh sĩ các nước tiến hành việc đắp thành. Nước Trịnh không đánh mà chịu khuất phục.
25/4/570 TCN, 2 nước Tấn – Lỗ hội minh ở Trường Xư, Trọng Tôn Miệt làm tướng lễ của Lỗ, Tuân Oanh làm tướng lễ của Tấn. Trọng Tôn Miệt để Lỗ Tương công (khi ấy 4 tuổi) làm lễ bầy tôi với Tấn Điệu công (khi ấy 17 tuổi), Tuân Oanh ngăn lại.
Mùa đông năm 570 TCN, Tuân Oanh soái quân đánh thuộc quốc của Sở là Hứa.
Nước Sở tiến hành phản công, các nước Trần, Trịnh nối nhau phản Tấn. Tấn Điệu công phẫn nộ, triệu tập các khanh bàn bạc. Tuân Oanh đề xuất lấy 3 quân Thượng, Hạ, Tân làm cơ sở, đem Trung quân chia làm 3, biên nhập vào 3 quân trên, lập ra 3 cánh quân; 1 cánh xuất chinh, 2 cánh hưu chỉnh, cứ xoay vần như vậy!
Nhằm gạt bỏ mọi trở ngại cho Tuân Oanh, Trung quân tướng Hàn Quyết chủ động cáo lão, Điệu công đồng ý. Năm 566 TCN, Tuân Oanh được thăng làm Trung quân tướng, tức Chính khanh.
Những năm sau đó, nước Trịnh kiên trì thực hiện chiến lược "Tấn đến theo Tấn, Sở đến theo Sở". Trong khi nước Tấn phản ứng mạnh mẽ thì nước Sở dần suy kiệt.
Tháng 12 năm 563 TCN, Tấn Điệu công cùng hội minh với Tống công, Lỗ công, Vệ hầu, Tào bá, Trịnh bá, Tề thế tử Quang, Cử tử, Chu tử, Đằng tử, Tiết bá, Kỷ bá, Tiểu Chu tử ở Tiêu Ngư [6], tha hết tù binh của nước Trịnh, rút hết quân đội khỏi nước Trịnh, cấm chỉ cướp bóc. Nước Sở không làm gì được nữa, Tấn Điệu công hoàn thành bá nghiệp.
Năm 560 TCN, Tuân Oanh qua đời. Con trai Tuân Sóc mất sớm, cháu nội Tuân Doanh kế tự, vì còn nhỏ tuổi, đến năm 548 TCN mới được làm Hạ quân tá.
Tuân Oanh đối đáp với Sở vương không kiêu ngạo không siểm nịnh, vừa bảo toàn được thân mà không làm mất thể diện quốc gia, cho thấy 1 tương lai không tầm thường.
Khi đắp thành Hổ Lao, ông nhanh chóng chấp nhận kế sách của Trọng Tôn Miệt nước Lỗ, nhưng không quên hỏi ý kiến của Thôi Trữ nước Tề, thể hiện tầm sâu sắc về quân sự và độ nhạy bén về chính trị hơn người. Sự trọng thị mà Tuân Oanh dành cho nước Tề, càng khiến nước Lỗ phụ thuộc vào nước Tấn nhiều hơn, thể hiện qua hội thề Trường Xư.
Chiến lược "dĩ dật đãi lao" của Tuân Oanh, chia quân làm 3, đã đi trước tình thế tranh chấp của 2 nước Tấn - Sở, kết quả giành được thắng lợi cho nước Tấn.