Tàu ngầm USS Argonaut di chuyển tại vùng bờ Đông Hoa Kỳ, ngày 22 tháng 7 năm 1963.
| |
Lịch sử | |
---|---|
Hoa Kỳ | |
Tên gọi | USS Argonaut (SS-475) |
Đặt tên theo | bạch tuột Argonaut [1] |
Xưởng đóng tàu | Xưởng hải quân Portsmouth, Kittery, Maine[2] |
Đặt lườn | 28 tháng 6, 1944[2] |
Hạ thủy | 1 tháng 10, 1944[2] |
Người đỡ đầu | bà Allan R. McCann |
Nhập biên chế | 15 tháng 1, 1945[2] |
Xuất biên chế | 2 tháng 12, 1968[2] |
Xóa đăng bạ | 2 tháng 12, 1968[3] |
Danh hiệu và phong tặng | 1 × Ngôi sao Chiến trận |
Số phận | Chuyển cho Canada, 2 tháng 12, 1968[2] |
HMCS Rainbow
| |
Canada | |
Tên gọi | HMCS Rainbow (SS 75) |
Trưng dụng | 1968 |
Nhập biên chế | 2 tháng 12, 1968 |
Xuất biên chế | 31 tháng 12, 1974 |
Số phận | Tháo dỡ 1977 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | lớp Tench[3] |
Kiểu tàu | tàu ngầm Diesel-điện |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | 311 ft 9 in (95,02 m) [3] |
Sườn ngang | 27 ft 4 in (8,33 m) [3] |
Mớn nước | 17 ft (5,2 m) [3] |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | 16.000 hải lý (30.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h)[4] |
Tầm hoạt động |
|
Độ sâu thử nghiệm | 400 ft (120 m) [4] |
Thủy thủ đoàn tối đa | 10 sĩ quan, 71 thủy thủ [4] |
Vũ khí |
|
USS Argonaut (SS-475) là một tàu ngầm lớp Tench được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên loài bạch tuột Argonaut.[1] Nhập biên chế năm 1945, nó đã phục vụ trong giai đoạn sau cùng của Thế Chiến II, nhưng chỉ kịp thực hiện được một chuyến tuần tra duy nhất và phá hủy một thuyền buồm nhỏ trước khi cuộc xung đột chấm dứt. Con tàu được nâng cấp trong khuôn khổ Chương trình Ống hơi Hạm đội, từng được trang bị tên lửa hành trình Regulus I và tiếp tục phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh cho đến khi được bán cho Canada vào năm 1968. Chiếc tàu ngầm tiếp tục hoạt động cùng Hải quân Hoàng gia Canada như là chiếc HMCS Rainbow (S 75) cho đến khi ngừng hoạt động năm 1974, hoàn trả cho Hoa Kỳ và tháo dỡ năm 1977. Argonaut được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Lớp tàu ngầm Tench là sự cải tiến tiếp theo của các lớp tàu ngầm hạm đội Balao và Gato, vốn đã chứng minh thành công trong hoạt động chống Nhật Bản tại Mặt trận Thái Bình Dương. Lớp tàu này, tích lũy những kinh nghiệm trong giai đoạn đầu của cuộc xung đột, là lớp tàu ngầm cuối cùng được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong chiến tranh.[6]
Những chiếc lớp Tench có chiều dài 311 ft 9 in (95,02 m), mạn tàu rộng 27 ft 4 in (8,33 m) và mớn nước tối đa 17 ft (5,2 m), có trọng lượng choán nước 1.570 tấn Anh (1.600 t) khi nổi và 2.414 tấn Anh (2.453 t) khi lặn. Chúng trang bị bốn động cơ diesel Fairbanks-Morse 38D8-⅛ 10-xy lanh chuyển động đối xứng, dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho hai động cơ điện, đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) cho phép di chuyển với tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) khi nổi. Khi hoạt động ngầm dưới nước, chúng được cung cấp điện từ hai dàn ắc-quy Sargo 126-cell để vận hành hai động cơ điện General Electric lõi kép tốc độ chậm, có công suất 2.740 shp (2.040 kW) và đạt tốc độ tối đa 8,75 kn (16,21 km/h). Tầm xa hoạt động là 16.000 hải lý (30.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 kn (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày; tuy nhiên khả năng hoạt động ngầm bị giới hạn bởi dung lượng điện ắc-quy, sẽ cạn trong 48 giờ khi di chuyển với tốc độ 2 kn (3,7 km/h). Chiếc tàu ngầm mang theo tiếp liệu đủ cho mười sĩ quan và 71 thủy thủ trong 75 ngày.[3][7]
Lớp Tench được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía đuôi tàu, và mang theo tổng cộng 28 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 5 inch/25 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber.[5][4]
Argonaut được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 28 tháng 6, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 1 tháng 10, 1944, được đỡ đầu bởi bà Allan R. McCann, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 15 tháng 1, 1945 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân John S. Schmidt.[1][8][9]
Argonaut tiến hành chạy thử máy và huấn luyện tại khu vực Portsmouth và vịnh Narragansett, rồi quay trở lại Xưởng hải quân Portsmouth vào ngày 27 tháng 3, 1945 để sửa chữa sau chạy thử máy, và lên đường vào ngày 14 tháng 4 để đi sang Key West, Florida. Tại đây chiếc tàu ngầm hoạt động thử nghiệm và huấn luyện cùng Trường Sonar Hạm đội, rồi xuất phát vào ngày 13 tháng 5 để đi sang khu vực Thái Bình Dương ngang qua kênh đào Panama, đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 28 tháng 6. Tại đây chiếc tàu ngầm trải qua hai tuần lễ sửa chữa và huấn luyện trước khi bắt đầu chuyến tuần tra duy nhất trong chiến tranh từ ngày 28 tháng 6.[1][9]
Sau chặng dừng tại Saipan vào ngày 10 tháng 7 để tiếp thêm nhiên liệu, Argonaut đi sang khu vực tuần tra được chỉ định tại eo biển Đài Loan, biển Hoa Đông và Hoàng Hải để truy lùng tàu bè đối phương. Vào ngày 16 tháng 7, chiếc tàu ngầm phát hiện một phi công bị bắn rơi, nên đã giải cứu và sau đó chuyển anh ta sang tàu ngầm chị em Quillback. Tàu đối phương duy nhất bị tiêu diệt là một thuyền buồm khoảng 25 tấn mà nó bắt gặp vào ngày 12 tháng 8, và đã đánh chìm bằng hỏa lực 40-mm và 20-mm. Nó kết thúc chuyến tuần tra tại Guam vào ngày 21 tháng 8, sáu ngày sau khi cuộc xung đột chấm dứt do phía Nhật Bản chấp nhận đầu hàng.[1][9]
Argonault được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][8]