Tàu ngầm USS Thornback (SS-418) trên sông Cooper, Charleston, 1956
| |
Lịch sử | |
---|---|
Hoa Kỳ | |
Tên gọi | USS Thornback (SS-418) |
Đặt tên theo | cá đuối Raja clavata hoặc Platyrhinoidis triseriata[1] |
Đặt hàng | 22 tháng 2, 1943[2] |
Xưởng đóng tàu | Xưởng hải quân Portsmouth, Kittery, Maine[3] |
Đặt lườn | 5 tháng 4, 1944[3] |
Hạ thủy | 7 tháng 7, 1944[3] |
Người đỡ đầu | bà Peter K. Fischler |
Nhập biên chế | 13 tháng 10, 1944[3] |
Xuất biên chế | 6 tháng 4, 1946[3] |
Tái biên chế | 2 tháng 10, 1953[3] |
Xuất biên chế | 1 tháng 7, 1971[3] |
Xóa đăng bạ | 1 tháng 8, 1973 [4] |
Danh hiệu và phong tặng | 1 × Ngôi sao Chiến trận |
Số phận | |
Thổ Nhĩ Kỳ | |
Tên gọi | TCG Uluçalireis (S 338) |
Đặt tên theo | Đô đốc Uluç Ali Reis |
Trưng dụng | 1 tháng 7, 1971 |
Ngừng hoạt động | 2000 |
Tình trạng | tàu bảo tàng tại Bảo tàng Rahmi M. Koç, Sừng Vàng, Istanbul[5] |
Đặc điểm khái quát(Khi hoàn tất) | |
Lớp tàu | lớp Tench[4] |
Kiểu tàu | tàu ngầm Diesel-điện |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | 311 ft 9 in (95,02 m) [4] |
Sườn ngang | 27 ft 4 in (8,33 m) [4] |
Mớn nước | 17 ft (5,2 m) [4] |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | 16.000 hải lý (30.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h)[6] |
Tầm hoạt động |
|
Độ sâu thử nghiệm | 400 ft (120 m) [6] |
Thủy thủ đoàn tối đa | 10 sĩ quan, 71 thủy thủ [6] |
Vũ khí |
|
Đặc điểm khái quát(Guppy IIA) | |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | 307 ft 7 in (93,75 m)[9] |
Sườn ngang | 27 ft 4 in (8,33 m)[9] |
Mớn nước | 17 ft (5,2 m)[9] |
Động cơ đẩy | |
Tốc độ |
|
Vũ khí |
USS Thornback (SS-418) là một Lớp Tench được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên chung của loài cá đuối Raja clavata hoặc Platyrhinoidis triseriata[1] Nhập biên chế năm 1944, nó đã phục vụ trong giai đoạn sau cùng của Thế Chiến II, chỉ kịp thực hiện được một chuyến tuần tra duy nhất và tiêu diệt vài mục tiêu nhỏ trước khi cuộc xung đột chấm dứt. Con tàu xuất biên chế cho đến năm 1953, rồi được nâng cấp trong khuôn khổ Dự án GUPPY IIA, và đã phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh cho đến năm 1971. Thornback được chuyển giao cho Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 1971 và tiếp tục phục vụ cùng Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ như là chiếc TCG Uluçalireis (S 338) cho đến năm 2000. Nó được giữ lại bảo tồn như một tàu bảo tàng tại Bảo tàng Rahmi M. Koç, ở Sừng Vàng, Istanbul. [5] Thornback được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Lớp tàu ngầm Tench là sự cải tiến tiếp theo của các lớp tàu ngầm hạm đội Balao và Gato, vốn đã chứng minh thành công trong hoạt động chống Nhật Bản tại Mặt trận Thái Bình Dương. Lớp tàu này, tích lũy những kinh nghiệm trong giai đoạn đầu của cuộc xung đột, là lớp tàu ngầm cuối cùng được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong chiến tranh.[10]
Những chiếc lớp Tench có chiều dài 311 ft 9 in (95,02 m), mạn tàu rộng 27 ft 4 in (8,33 m) và mớn nước tối đa 17 ft (5,2 m), có trọng lượng choán nước 1.570 tấn Anh (1.600 t) khi nổi và 2.414 tấn Anh (2.453 t) khi lặn. Chúng trang bị bốn động cơ diesel Fairbanks-Morse 38D8-⅛ 10-xy lanh chuyển động đối xứng, dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho hai động cơ điện, đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) cho phép di chuyển với tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) khi nổi. Khi hoạt động ngầm dưới nước, chúng được cung cấp điện từ hai dàn ắc-quy Sargo 126-cell để vận hành hai động cơ điện General Electric lõi kép tốc độ chậm, có công suất 2.740 shp (2.040 kW) và đạt tốc độ tối đa 8,75 kn (16,21 km/h). Tầm xa hoạt động là 16.000 hải lý (30.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 kn (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày; tuy nhiên khả năng hoạt động ngầm bị giới hạn bởi dung lượng điện ắc-quy, sẽ cạn trong 48 giờ khi di chuyển với tốc độ 2 kn (3,7 km/h). Chiếc tàu ngầm mang theo tiếp liệu đủ cho mười sĩ quan và 71 thủy thủ trong 75 ngày.[4][11]
Lớp Tench được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía đuôi tàu, và mang theo tổng cộng 28 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 5 inch/25 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber.[7][6]
Thornback được đặt hàng vào ngày 22 tháng 2, 1943[2] và được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 5 tháng 4, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 7 tháng 7, 1944, được đỡ đầu bởi bà Peter K. Fischler, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 13 tháng 10, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Ernest P. Abrahamson.[1][12][2]
Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy và huấn luyện, Thornback khởi hành từ Căn cứ Tàu ngầm Hải quân tại New London, Connecticut vào ngày 20 tháng 3, 1945 và băng qua kênh đào Panama để đi sang khu vực Thái Bình Dương. Nó đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 25 tháng 5, và tiếp tục được huấn luyện tại vùng biển quần đảo Hawaii. Khi nó xuất phát vào ngày 11 tháng 6 cho chuyến tuần tra duy nhất trong chiến tranh, và đang di chuyển dọc luồng ra vào Trân Châu Cảng, một đội hình xuồng đổ bộ Landing Craft Infantry (LCI) di chuyển nghịch hướng đã buộc chiếc tàu ngầm phải di chuyển sát bờ, và làm hư hại vòm sonar. Chuyến đi bị trì hoãn mất hai ngày trong khi Thornback được sửa chữa.[1][2]
Trên đường hướng sang Saipan thuộc quần đảo Mariana, Thornback được lệnh chuyển hướng đến Guam và đến nơi vào ngày 25 tháng 6. Nó tiếp tục chuyến tuần tra từ ngày 30 tháng 6, đảm nhiệm vai trò chỉ huy của một bầy sói có biệt danh "Abe's Abolishers", và làm nhiệm vụ dọn đường cho Đệ Tam hạm đội hoạt động tại khu vực Tokyo-Yokohama, trước khi chuyển sang tuần tra dọc bờ biển phía Đông Honshū và phía Nam Hokkaidō. Tuy nhiên hoàn cảnh thời tiết xấu và tầm nhìn kém đã giới hạn hoạt động của bầy sói. Thornback nhìn thấy một tàu bệnh viện vào ngày 5 tháng 7, và đã để cho con tàu di chuyển an toàn. Sáu ngày sau đó, chiếc tàu ngầm gặp tai nạn khi một đám cháy nhỏ bùng phát trong phòng máy bơm, nên phải tạm thời tắt máy điều hòa không khí số 1 để tiến hành sửa chữa.[1][2]
Thornback được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][12]