USS Corsair (SS-435)

Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Corsair (SS-435)
Đặt tên theo họ cá biển Sebastidae [1]
Xưởng đóng tàu Electric Boat Company, Groton, Connecticut[2]
Đặt lườn 1 tháng 3, 1945[2]
Hạ thủy 3 tháng 5, 1946[2]
Người đỡ đầu bà Irene C. Hustvedt
Nhập biên chế 8 tháng 11, 1946[2]
Xuất biên chế 1 tháng 2, 1963[2]
Xóa đăng bạ 1 tháng 2, 1963[2]
Số phận Bán để tháo dỡ, 8 tháng 11, 1963[2]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu lớp Tench[3]
Kiểu tàu tàu ngầm Diesel-điện
Trọng tải choán nước
  • 1.570 tấn Anh (1.600 t) (mặt nước) [3]
  • 2.429 tấn Anh (2.468 t) (lặn) [3]
Chiều dài 311 ft 9 in (95,02 m) [3]
Sườn ngang 27 ft 4 in (8,33 m) [3]
Mớn nước 17 ft (5,2 m) [3]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa 16.000 hải lý (30.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h)[4]
Tầm hoạt động
  • 48 giờ ở tốc độ 2 kn (2,3 mph; 3,7 km/h) khi lặn [4]
  • 75 ngày tuần tra
Độ sâu thử nghiệm 400 ft (120 m) [4]
Thủy thủ đoàn tối đa 10 sĩ quan, 71 thủy thủ [4]
Vũ khí

USS Corsair (SS-435/AGSS-435) là một tàu ngầm lớp Tench được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên họ cá biển Sebastidae hoặc tên gọi một tên cướp biển hay thủy thủ một tàu lùng.[1] Chỉ được cho nhập biên chế vào năm 1946, nó hoàn tất quá trễ để có thể tham gia Thế Chiến II, nhưng đã phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh cho đến khi xuất biên chế và bị bán để tháo dỡ vào năm 1963.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]

Lớp tàu ngầm Tench là sự cải tiến tiếp theo của các lớp tàu ngầm hạm đội Balao Gato, vốn đã chứng minh thành công trong hoạt động chống Nhật Bản tại Mặt trận Thái Bình Dương. Lớp tàu này, tích lũy những kinh nghiệm trong giai đoạn đầu của cuộc xung đột, là lớp tàu ngầm cuối cùng được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong chiến tranh.[6]

Những chiếc lớp Tench có chiều dài 311 ft 9 in (95,02 m), mạn tàu rộng 27 ft 4 in (8,33 m) và mớn nước tối đa 17 ft (5,2 m), có trọng lượng choán nước 1.570 tấn Anh (1.600 t) khi nổi và 2.414 tấn Anh (2.453 t) khi lặn. Riêng Corsair được trang bị bốn động cơ diesel General Motors Cleveland Model 16-278A 12-xylanh, dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho hai động cơ điện, đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) cho phép di chuyển với tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) khi nổi. Khi hoạt động ngầm dưới nước, chúng được cung cấp điện từ hai dàn ắc-quy Sargo 126-cell để vận hành hai động cơ điện General Electric lõi kép tốc độ chậm, có công suất 2.740 shp (2.040 kW) và đạt tốc độ tối đa 8,75 kn (16,21 km/h). Tầm xa hoạt động là 16.000 hải lý (30.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 kn (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày; tuy nhiên khả năng hoạt động ngầm bị giới hạn bởi dung lượng điện ắc-quy, sẽ cạn trong 48 giờ khi di chuyển với tốc độ 2 kn (3,7 km/h). Chiếc tàu ngầm mang theo tiếp liệu đủ cho mười sĩ quan và 71 thủy thủ trong 75 ngày.[3][7]

Lớp Tench được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía đuôi tàu, và mang theo tổng cộng 28 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 5 inch/25 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber.[5][4]

Chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Corsair được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Electric Boat CompanyGroton, Connecticut vào ngày 1 tháng 3, 1945. Nó được hạ thủy vào ngày 3 tháng 5, 1946, được đỡ đầu bởi bà Irene Cooper Hustvedt, phu nhân Chuẩn đô đốc Olaf M. Hustvedt, hạm trưởng đầu tiên của thiết giáp hạm North Carolina, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 8 tháng 11, 1946 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân A. S. Fuhrman.[1][8][9]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau chuyến đi chạy thử máy vốn đưa con tàu đến viếng thăm Havana, Panama, TrinidadRio de Janeiro, Corsair được phân về Hải đội Tàu ngầm 8 trực thuộc Hạm đội Đại Tây Dương, và hoạt động từ Căn cứ Tàu ngầm Hải quân New London tại New London, Connecticut. Nó tham gia huấn luyện cùng các đơn vị hạm đội khác cho đến ngày tháng 6, 1947, khi nó đi vào xưởng tàu của hãng Electric Boat Company để được trang bị một hệ thống sonar mới. Trong một đợt thử nghiệm ngư lôi kiểu mới, nó đã đánh chìm chiếc tàu quét mìnChewink (AM-39) vào ngày 31 tháng 7, 1947.[1]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d Naval Historical Center. Corsair II (SS-435). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  2. ^ a b c d e f g Friedman 1995, tr. 285-304
  3. ^ a b c d e f g h i j k l Bauer & Roberts 1991, tr. 280–282
  4. ^ a b c d e f g h Friedman 1995, tr. 305-311
  5. ^ a b c d e f Lenton (1973), tr. 101.
  6. ^ Gardiner & Chesneau, tr. 146–147.
  7. ^ Friedman 1995, tr. 261–263, 305–311.
  8. ^ Yarnall, Paul R. “Corsair (SS-435) (AGSS-435)”. NavSource.org. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2024.
  9. ^ Helgason, Guðmundur. “Corsair (SS-435)”. uboat.net. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2024.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]


Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Viễn cảnh đầu tư 2024: giá hàng hóa leo thang và “chiếc giẻ lau” mới của Mỹ
Viễn cảnh đầu tư 2024: giá hàng hóa leo thang và “chiếc giẻ lau” mới của Mỹ
Lạm phát vẫn ở mức cao khiến FED có cái cớ để tiếp tục duy trì thắt chặt, giá cả của các loại hàng hóa và tài sản vẫn tiếp tục xu hướng gia tăng
[Visual Novel] White Album 2 Tiếng Việt
[Visual Novel] White Album 2 Tiếng Việt
Đây là bài đầu tiên mà tôi tập, và cũng là bài mà tôi đã thuần thục
Phong trụ Sanemi Shinazugawa trong  Kimetsu no Yaiba
Phong trụ Sanemi Shinazugawa trong Kimetsu no Yaiba
Sanemi Shinazugawa (Shinazugawa Sanemi?) là một trụ cột của Demon Slayer: Kimetsu no Yaiba
Akatsuki no Goei - Trinity Complete Edition [Tiếng Việt]
Akatsuki no Goei - Trinity Complete Edition [Tiếng Việt]
Cậu chuyện lấy bối cảnh Nhật Bản ở một tương lai gần, giai đoạn cảnh sát hoàn toàn mất kiểm soát, tội phạm ở khắp nơi