Tàu ngầm USS Quillback (SS-424)
| |
Lịch sử | |
---|---|
Hoa Kỳ | |
Tên gọi | USS Quillback (SS-424) |
Đặt tên theo | một loài thuộc họ Cá mút [1] |
Đặt hàng | 22 tháng 2, 1943 |
Xưởng đóng tàu | Xưởng hải quân Portsmouth, Kittery, Maine[2] |
Đặt lườn | 27 tháng 6, 1944[2] |
Hạ thủy | 1 tháng 10, 1944[2] |
Người đỡ đầu | bà John A. Tyree, Jr. |
Nhập biên chế | 29 tháng 12, 1944[2] |
Xuất biên chế | tháng 4, 1952[2] |
Tái biên chế | 27 tháng 2, 1953[2] |
Xuất biên chế | 23 tháng 3, 1973[2] |
Xóa đăng bạ | 23 tháng 3, 1973[2] |
Danh hiệu và phong tặng | 1 × Ngôi sao Chiến trận |
Số phận | Bán để tháo dỡ, 21 tháng 3, 1974[2] |
Đặc điểm khái quát(Khi hoàn tất) | |
Lớp tàu | lớp Tench[3] |
Kiểu tàu | tàu ngầm Diesel-điện |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | 311 ft 9 in (95,02 m) [3] |
Sườn ngang | 27 ft 4 in (8,33 m) [3] |
Mớn nước | 17 ft (5,2 m) [3] |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | 16.000 hải lý (30.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h)[4] |
Tầm hoạt động |
|
Độ sâu thử nghiệm | 400 ft (120 m) [4] |
Thủy thủ đoàn tối đa | 10 sĩ quan, 71 thủy thủ [4] |
Vũ khí |
|
Đặc điểm khái quát(Guppy II) | |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | 307 ft 7 in (93,75 m)[7] |
Sườn ngang | 27 ft 4 in (8,33 m)[7] |
Mớn nước | 17 ft (5,2 m)[7] |
Động cơ đẩy | |
Tốc độ |
|
Tầm xa | 15.000 hải lý (28.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 11 hải lý trên giờ (20 km/h)[7] |
Tầm hoạt động | 48 giờ ở tốc độ 4 kn (4,6 mph; 7,4 km/h) khi lặn [7] |
Thủy thủ đoàn tối đa |
|
Hệ thống cảm biến và xử lý | |
Vũ khí |
USS Quillback (SS-424) là một tàu ngầm lớp Tench được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên một loài thuộc họ Cá mút.[1] Nhập biên chế năm 1944, nó đã phục vụ trong giai đoạn sau cùng của Thế Chiến II, chỉ kịp thực hiện được một chuyến tuần tra duy nhất và phá hủy một xuồng tự sát trước khi cuộc xung đột chấm dứt. Con tàu sau đó được nâng cấp trong khuôn khổ Dự án GUPPY II, và tiếp tục phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh. Quillback xuất biên chế vào năm 1973 và bị bán để tháo dỡ vào năm 1974. Quillback được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Lớp tàu ngầm Tench là sự cải tiến tiếp theo của các lớp tàu ngầm hạm đội Balao và Gato, vốn đã chứng minh thành công trong hoạt động chống Nhật Bản tại Mặt trận Thái Bình Dương. Lớp tàu này, tích lũy những kinh nghiệm trong giai đoạn đầu của cuộc xung đột, là lớp tàu ngầm cuối cùng được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong chiến tranh.[8]
Những chiếc lớp Tench có chiều dài 311 ft 9 in (95,02 m), mạn tàu rộng 27 ft 4 in (8,33 m) và mớn nước tối đa 17 ft (5,2 m), có trọng lượng choán nước 1.570 tấn Anh (1.600 t) khi nổi và 2.414 tấn Anh (2.453 t) khi lặn. Chúng trang bị bốn động cơ diesel Fairbanks-Morse 38D8-⅛ 10-xy lanh chuyển động đối xứng, dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho hai động cơ điện, đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) cho phép di chuyển với tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) khi nổi. Khi hoạt động ngầm dưới nước, chúng được cung cấp điện từ hai dàn ắc-quy Sargo 126-cell để vận hành hai động cơ điện General Electric lõi kép tốc độ chậm, có công suất 2.740 shp (2.040 kW) và đạt tốc độ tối đa 8,75 kn (16,21 km/h). Tầm xa hoạt động là 16.000 hải lý (30.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 kn (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày; tuy nhiên khả năng hoạt động ngầm bị giới hạn bởi dung lượng điện ắc-quy, sẽ cạn trong 48 giờ khi di chuyển với tốc độ 2 kn (3,7 km/h). Chiếc tàu ngầm mang theo tiếp liệu đủ cho mười sĩ quan và 71 thủy thủ trong 75 ngày.[3][9]
Lớp Tench được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía đuôi tàu, và mang theo tổng cộng 28 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 5 inch/25 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber.[5][4]
Con tàu thoạt tiên được đặt tên Trembler, theo tên loài cá đuối điện nhỏ; nhưng sau đó được đổi tên thành Quillback, theo tên một loài thuộc họ Cá mút, vào ngày 7 tháng 12, 1943. Nó được đặt hàng vào ngày 22 tháng 2, 1943[10] và được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 27 tháng 6, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 1 tháng 10, 1944, được đỡ đầu bởi bà John A. Tyree, Jr., và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 29 tháng 12, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Richard P. Nicholson.[1][11][10]
Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại vùng biển ngoài khơi New London, Connecticut, Quillback khởi hành từ Căn cứ Tàu ngầm Hải quân New London vào ngày 8 tháng 3, 1945 để đi sang Key West, Florida, nơi nó tham gia một dự án thử nghiệm đạn dược. Con tàu rời Key West vào ngày 2 tháng 4 để đi sang khu vực Thái Bình Dương ngang qua kênh đào Panama, đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 1 tháng 5.[1][10]
Quillback thực hiện chuyến tuần tra duy nhất trong chiến tranh từ ngày 30 tháng 5 đến ngày 24 tháng 7, và hoạt động tại vùng biển ngoài khơi Kyūshū. Trong chuyến đi này nó không đánh chìm được mục tiêu nào ngoại trừ việc phá hủy một xuồng máy tự sát Shinyo; tuy nhiên nó đã cứu vớt một phi công bị bắn rơi ở vị trí chỉ cách bờ biển nữa dặm dưới tàm hỏa lực của đối phương. Đang khi chiếc tàu ngầm được tái trang bị tại Guam nhằm chuẩn bị cho chuyến tuần tra tiếp theo, xung đột chấm dứt khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng.[1][10]
Quillback được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][11]