Tàu ngầm USS Trutta (SS-421)
| |
Lịch sử | |
---|---|
Hoa Kỳ | |
Tên gọi | USS Trutta (SS-421) |
Đặt tên theo | cá hồi nâu [1] |
Đặt hàng | 22 tháng 2, 1943 [2] |
Xưởng đóng tàu | Xưởng hải quân Portsmouth, Kittery, Maine[3] |
Đặt lườn | 22 tháng 5, 1944[3] |
Hạ thủy | 18 tháng 8, 1944[3] |
Người đỡ đầu | bà Edward C. Magdeburger |
Nhập biên chế | 16 tháng 11, 1944[3] |
Xuất biên chế | 1947[3] |
Tái biên chế | 1 tháng 3, 1951[3] |
Xuất biên chế | 14 tháng 5, 1952[3] |
Tái biên chế | 2 tháng 1, 1953[3] |
Xuất biên chế | 1 tháng 7, 1972[3] |
Xóa đăng bạ | 1 tháng 7, 1972[4] |
Danh hiệu và phong tặng | 3 × Ngôi sao Chiến trận |
Số phận | Chuyển cho Thổ Nhĩ Kỳ, 1 tháng 7, 1972[3] |
Thổ Nhĩ Kỳ | |
Tên gọi | TCG Cerbe (S 340) |
Đặt tên theo | trận Djerba |
Trưng dụng | 1 tháng 7, 1972 |
Xuất biên chế | 23 tháng 7, 1999 |
Số phận | Có thể đã bị tháo dỡ |
Đặc điểm khái quát(Khi hoàn tất) | |
Lớp tàu | lớp Tench[4] |
Kiểu tàu | tàu ngầm Diesel-điện |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | 311 ft 9 in (95,02 m) [4] |
Sườn ngang | 27 ft 4 in (8,33 m) [4] |
Mớn nước | 17 ft (5,2 m) [4] |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | 16.000 hải lý (30.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h)[5] |
Tầm hoạt động |
|
Độ sâu thử nghiệm | 400 ft (120 m) [5] |
Thủy thủ đoàn tối đa | 10 sĩ quan, 71 thủy thủ [5] |
Vũ khí |
|
Đặc điểm khái quát(Guppy IIA) | |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | 307 ft 7 in (93,75 m)[8] |
Sườn ngang | 27 ft 4 in (8,33 m)[8] |
Mớn nước | 17 ft (5,2 m)[8] |
Động cơ đẩy | |
Tốc độ |
|
Vũ khí |
USS Trutta (SS-421) là một tàu ngầm lớp Tench được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên cá hồi nâu.[1] Nhập biên chế năm 1944, nó đã phục vụ trong giai đoạn sau cùng của Thế Chiến II, chỉ kịp hoàn tất được hai chuyến tuần tra và tiêu diệt vài mục tiêu nhỏ trước khi cuộc xung đột chấm dứt. Con tàu xuất biên chế cho đến năm 1951, rồi được nâng cấp trong khuôn khổ Dự án GUPPY IIA, và đã phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh cho đến năm 1972. Trutta được chuyển giao cho Thổ Nhĩ Kỳ và tiếp tục phục vụ cùng Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ như là chiếc TCG Cerbe (S 340) cho đến năm 1999, và sau đó có thể đã bị tháo dỡ. Trutta được tặng thưởng hai Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Lớp tàu ngầm Tench là sự cải tiến tiếp theo của các lớp tàu ngầm hạm đội Balao và Gato, vốn đã chứng minh thành công trong hoạt động chống Nhật Bản tại Mặt trận Thái Bình Dương. Lớp tàu này, tích lũy những kinh nghiệm trong giai đoạn đầu của cuộc xung đột, là lớp tàu ngầm cuối cùng được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong chiến tranh.[9]
Những chiếc lớp Tench có chiều dài 311 ft 9 in (95,02 m), mạn tàu rộng 27 ft 4 in (8,33 m) và mớn nước tối đa 17 ft (5,2 m), có trọng lượng choán nước 1.570 tấn Anh (1.600 t) khi nổi và 2.414 tấn Anh (2.453 t) khi lặn. Chúng trang bị bốn động cơ diesel Fairbanks-Morse 38D8-⅛ 10-xy lanh chuyển động đối xứng, dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho hai động cơ điện, đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) cho phép di chuyển với tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) khi nổi. Khi hoạt động ngầm dưới nước, chúng được cung cấp điện từ hai dàn ắc-quy Sargo 126-cell để vận hành hai động cơ điện General Electric lõi kép tốc độ chậm, có công suất 2.740 shp (2.040 kW) và đạt tốc độ tối đa 8,75 kn (16,21 km/h). Tầm xa hoạt động là 16.000 hải lý (30.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 kn (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày; tuy nhiên khả năng hoạt động ngầm bị giới hạn bởi dung lượng điện ắc-quy, sẽ cạn trong 48 giờ khi di chuyển với tốc độ 2 kn (3,7 km/h). Chiếc tàu ngầm mang theo tiếp liệu đủ cho mười sĩ quan và 71 thủy thủ trong 75 ngày.[4][10]
Lớp Tench được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía đuôi tàu, và mang theo tổng cộng 28 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 5 inch/25 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber.[6][5]
Con tàu thoạt tiên được đặt tên Tomtate,[Ghi chú 1] theo tên nhiều loài thuộc họ Cá sạo; nhưng sau đó được đổi tên thành Trutta, theo tên loài cá hồi nâu,[1] vào ngày 24 tháng 9, 1942. Nó được đặt hàng vào ngày 22 tháng 2, 1943[2] và được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 22 tháng 5, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 18 tháng 8, 1944, được đỡ đầu bởi bà Edward C. Magdeburger, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 16 tháng 11, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Arthur C. Smith.[1][11][2]
Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy và huấn luyện, Tirante khởi hành từ Căn cứ Tàu ngầm Hải quân tại New London, Connecticut vào ngày 18 tháng 1, 1945 và băng qua kênh đào Panama để đi sang khu vực Thái Bình Dương. Nó đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 25 tháng 2, và tiếp tục được huấn luyện tại vùng biển quần đảo Hawaii.[1][2]
Tirante xuất phát từ Oahu vào ngày 19 tháng 3 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh, hoạt động phối hợp cùng các tàu ngầm Parche (SS-384) và Lionfish (SS-298) trong thành phần một bầy sói, dưới sự chỉ huy chung của Trung tá Smith, hạm trưởng của Tirante. Sau khi ghé đến Saipan để tiếp thêm nhiên liệu vào ngày 30 tháng 3, đang khi rời Tanapag Harbor để tiếp tục hành trình, chiếc tàu ngầm vướng phải một dây cáp nối liền với một thùng dầu trên luồng ra vào cảng. Nó buộc phải quay trở lại Saipan để sửa chữa chân vịt trước khi xuất phát trở lại vào ngày 3 tháng 4.[1][2]
Trutta được tặng thưởng hai Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][11]