USS Pratt (DE-363)

Tàu hộ tống khu trục USS Pratt (DE-363), khoảng năm 1945
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Pratt
Đặt tên theo Malcolm Lewis Pratt
Xưởng đóng tàu Consolidated Steel Corporation, Orange, Texas
Đặt lườn 11 tháng 4, 1944
Hạ thủy 1 tháng 6, 1944
Nhập biên chế 18 tháng 9, 1944
Xuất biên chế 14 tháng 5, 1946
Xóa đăng bạ 15 tháng 3, 1972
Số phận Bán để tháo dỡ, 15 tháng 1, 1973
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu lớp John C. Butler
Kiểu tàu tàu hộ tống khu trục
Trọng tải choán nước
  • 1.350 tấn Anh (1.372 t) (tiêu chuẩn)
  • 1.745 tấn Anh (1.773 t) (đầy tải)
Chiều dài 306 ft (93,3 m)
Sườn ngang 37 ft (11,3 m)
Mớn nước
  • 9 ft 4 in (2,8 m) (tiêu chuẩn)
  • 13 ft 4 in (4,1 m) (đầy tải)
Công suất lắp đặt 12.000 bhp (8.900 kW)
Động cơ đẩy
  • 2 × nồi hơi ống nước Foster-Wheeler kiểu Express "D"
  • 2 × turbine hơi nước Westinghouse với hộp số giảm tốc;
  • 2 × trục
  • 2 × chân vịt ba cánh đường kính 8 ft 6 in (2,59 m)
Tốc độ 24 kn (28 mph; 44 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa
  • 15 sĩ quan
  • 183 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • sonar QC;
  • radar SC dò tìm mặt biển;
  • radar SA dò tìm không trung
Vũ khí

USS Pratt (DE-363) là một tàu hộ tống khu trục lớp John C. Butler từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên Thiếu tá Thủy quân Lục chiến Malcolm Lewis Pratt (1891–1942) và con ông Trung úy Thủy quân Lục chiến John Lester Pratt (1920-1943). Bác sĩ quân y Malcolm Lewis Pratt từng được tặng thưởng Huân chương Chữ thập Hải quân trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, đã phục vụ trở lại cùng Sư đoàn 1 Thủy quân Lục chiến trong Chiến dịch Guadalcanal và đã mất tích trong một hoạt động tại sông Mantanikau, Guadalcanal vào ngày 13 tháng 8, 1942. Trung úy John Lester Pratt đã tử trận tại Guadalcanal vào ngày 22 tháng 1, 1943.[1] Con tàu đã phục vụ trong suốt Thế chiến II, được cho ngừng hoạt động sau khi xung đột chấm dứt vào năm 1946, và cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1973.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Lớp John C. Butler được thiết kế nhằm đáp ứng nhu cầu một số lượng lớn nhưng rẻ tiền của một kiểu tàu hộ tống chống tàu ngầm để hộ tống các đoàn tàu vận tải vượt đại dương.[2] Chúng có chiều dài chung 306 foot (93,3 m), mạn tàu rộng 36 foot 10 inch (11,2 m) và mớn nước 13 foot 4 inch (4,1 m),[1] trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.350 tấn Anh (1.372 t), và lên đến 1.745 tấn Anh (1.773 t) khi đầy tải, với một thủy thủ đoàn bao gồm 14 sĩ quan và 201 thủy thủ.[3] Con tàu được vận hành bởi hai turbine hơi nước hộp số Westinghouse; hơi nước được cung cấp bởi hai nồi hơi "D" Express, tạo ra công suất 12.000 mã lực càng (8.900 kW) và cho phép đạt được tốc độ tối đa 24 hải lý trên giờ (44 km/h; 28 mph). Nó có tầm hoạt động 6.000 hải lý (11.000 km; 6.900 mi) ở tốc độ đường trường 12 hải lý trên giờ (22 km/h; 14 mph).[3]

Dàn vũ khí chính bao gồm hai tháp pháo 5-inch/38 caliber đa dụng nòng đơn, được dẫn đường bởi hệ thống điều khiển hỏa lực Mark 51; vũ khí phòng không gồm hai khẩu đội Bofors 40 mm L/60 nòng đôi và mười khẩu Oerlikon 20 mm nòng đơn cũng được dẫn đường bởi hệ thống Mark 51.[2] Ngoài ba ống phóng ngư lôi 21 inch (533 mm), vũ khí chống ngầm bao gồm hai đường ray thả mìn sâu, tám máy phóng mìn sâu K-gun cùng một dàn súng cối chống ngầm Hedgehog.[1] Con tàu được trang bị sonar kiểu QC,[3] radar dò tìm mặt biển SL[4] và radar dò tìm không trung SA.[5]

Pratt được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Consolidated Steel CorporationOrange, Texas vào ngày 11 tháng 4, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 1 tháng 6, 1944, được đỡ đầu bởi bà Malcolm L. Pratt, vợ góa của Thiếu tá Bác sĩ M. L. Pratt và là mẹ của Trung úy J. L. Pratt. Con tàu được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 18 tháng 9, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Robert Hume Wanless.[1][6][7]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại khu vực Bermuda và sửa chữa sau chạy thử máy, Pratt cùng với Đội hộ tống 85 khởi hành để đi đến vùng kênh đào Panama do được điều động sang khu vực Mặt trận Thái Bình Dương. Nó tiếp tục hướng đến khu vực Tây Nam Thái Bình Dương, đi đến đảo Manus thuộc quần đảo Admiralty vào ngày 7 tháng 1, 1945. Con tàu tham gia hộ tống các đoàn tàu vận tải đi lại giữa Hollandia, New Guineaquần đảo Philippine cho đến ngày 25 tháng 5, rồi trong giai đoạn từ đó cho đến ngày 25 tháng 8 đã phục vụ huấn luyện và hộ tống cho các tàu ngầm Hoa Kỳ và Anh Quốc tại khu vực vịnh Subic, cũng như tuần tra trên các tuyến đường hàng hải tại vùng bờ biển Tây Bắc của đảo Luzon, Philippines.[1]

Sau khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột, Pratt gia nhập Đội đặc nhiệm 70.4 và lên đường đi sang Okinawa để tham gia vào lực lượng chiếm đóng Triều Tiên. Nó khởi hành vào ngày 5 tháng 9 để đi sang Jinsen, giúp thành lập một căn cứ thủy phi cơ tại đây, rồi cùng tàu tiếp liệu thủy phi cơ Currituck (AV-7) và tàu hộ tống khu trục chị em Rombach (DE-364) lên đường đi sang Thượng Hải, Trung Quốc. Nó lại chuyển đến Đại Cô Khẩu ở ngoại vi Thiên Tân vào ngày 28 tháng 9, tiếp tục hỗ trợ cho việc xây dựng một căn cứ thủy phi cơ tại đây.[1]

Vào ngày 21 tháng 11, Pratt đi đến để bắt đầu hành trình quay trở về Hoa Kỳ, về đến San Pedro, Los Angeles vào ngày 16 tháng 12, 1945. Nó được cho xuất biên chế vào ngày 14 tháng 6, 1945[1][6][7] và được đưa về Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương, thoạt tiên neo đậu tại Stockton, California; rồi được chuyển đến Mare Island vào năm 1959.[1] Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 15 tháng 3, 1972,[1][6][7] và con tàu bị bán để tháo dỡ vào ngày 15 tháng 1, 1973. [1][6][7][8]

Phần thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn: Navsource Naval History[6]
Bản mẫu:Ribbon devices/alt Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt Bản mẫu:Ribbon devices/alt Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II Huân chương Phục vụ Chiếm đóng Hải quân Huân chương Giải phóng Philippine
(Philippine)

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j DANFS.
  2. ^ a b Friedman 1982, tr. 141, 149.
  3. ^ a b c Friedman 1982, tr. 421.
  4. ^ Friedman 1981, tr. 149.
  5. ^ Friedman 1981, tr. 146.
  6. ^ a b c d e NavSource.
  7. ^ a b c d Uboat.
  8. ^ Bauer & Roberts 1991, tr. 236.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Bauer, K. Jack; Roberts, Stephen S. (1991). Register of Ships of the U.S. Navy, 1775-1990: Major Combatants. Westport, Connecticut: Greenwood Press. ISBN 0-313-26202-0.
  • Friedman, Norman (1981). Naval Radar. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-238-2.
  • Friedman, Norman (1982). U.S. Destroyers: An Illustrated Design History. Annapolis, Maryland, USA: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-733-X.
  • “Pratt (DE-363)”. Dictionary of American Naval Fighting Ships. Naval History & Heritage Command. 18 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2022.
  • Yarnall, Paul R. (27 tháng 10 năm 2019). “USS Pratt (DE-363)”. NavSource.org. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2022.
  • Helgason, Guðmundur. “USS Pratt (DE-363)”. uboat.net. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2022.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]


Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
[Review] Soushuu Senshinkan Hachimyoujin: Common Route – First Impression
[Review] Soushuu Senshinkan Hachimyoujin: Common Route – First Impression
Là sản phẩm tiếp theo nằm trong Shinza Bansho của Masada sau Paradise Lost, Dies Irae, Kajiri Kamui Kagura
Baemin từ
Baemin từ "tân binh" đầy nổi bật thành "tàn binh" bên bờ vực dừng hoạt động ở Việt Nam
Thương hiệu "viral" khắp cõi mạng nhưng "không bao giờ có lãi", liệu có lặp lại câu chuyện của những chú gà vàng đen Beeline?
Lịch sử đồng hành của các vị thần với quốc gia của mình
Lịch sử đồng hành của các vị thần với quốc gia của mình
Lược qua các thông tin cơ bản của các vị thần với quốc gia của mình
Nguồn gốc của mâu thuẫn lịch sử giữa hồi giáo, do thái và thiên chúa giáo
Nguồn gốc của mâu thuẫn lịch sử giữa hồi giáo, do thái và thiên chúa giáo
Mâu thuẫn giữa Trung Đông Hồi Giáo, Israel Do Thái giáo và Phương Tây Thiên Chúa Giáo là một mâu thuẫn tính bằng thiên niên kỷ và bao trùm mọi mặt của đời sống