USS Gentry (DE-349)

Tàu hộ tống khu trục USS Gentry (DE-349), tháng 10 năm 1944
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Gentry
Đặt tên theo Wayne Roy Gentry
Xưởng đóng tàu Consolidated Steel Corporation, Orange, Texas
Đặt lườn 13 tháng 12, 1943
Hạ thủy 15 tháng 2, 1944
Người đỡ đầu cô Jean Maxine Gentry
Nhập biên chế 14 tháng 6, 1944
Xuất biên chế 2 tháng 7, 1946
Xóa đăng bạ 15 tháng 1, 1972
Số phận Bán để tháo dỡ, 15 tháng 1, 1973
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu lớp John C. Butler
Kiểu tàu tàu hộ tống khu trục
Trọng tải choán nước
  • 1.350 tấn Anh (1.372 t) (tiêu chuẩn)
  • 1.745 tấn Anh (1.773 t) (đầy tải)
Chiều dài 306 ft (93,3 m)
Sườn ngang 37 ft (11,3 m)
Mớn nước
  • 9 ft 4 in (2,8 m) (tiêu chuẩn)
  • 13 ft 4 in (4,1 m) (đầy tải)
Công suất lắp đặt 12.000 bhp (8.900 kW)
Động cơ đẩy
  • 2 × nồi hơi ống nước Foster-Wheeler kiểu Express "D"
  • 2 × turbine hơi nước Westinghouse với hộp số giảm tốc;
  • 2 × trục
  • 2 × chân vịt ba cánh đường kính 8 ft 6 in (2,59 m)
Tốc độ 24 kn (28 mph; 44 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa
  • 15 sĩ quan
  • 183 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • sonar QC;
  • radar SC dò tìm mặt biển;
  • radar SA dò tìm không trung
Vũ khí

USS Gentry (DE-349) là một tàu hộ tống khu trục lớp John C. Butler từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên Thiếu úy Thủy quân Lục chiến Wayne Roy Gentry (1920–1942), phi công từng phục vụ cùng một liên đội tuần tiễu-ném bom tại khu vực quần đảo Solomon, đã tử trận vào ngày 2 tháng 11, 1942 và được truy tặng Huân chương Không lực.[1][2] Nó đã phục vụ trong suốt Thế chiến II, được cho ngừng hoạt động sau khi xung đột chấm dứt vào năm 1946, rồi cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1973.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Lớp John C. Butler được thiết kế nhằm đáp ứng nhu cầu một số lượng lớn nhưng rẻ tiền của một kiểu tàu hộ tống chống tàu ngầm để hộ tống các đoàn tàu vận tải vượt đại dương.[3] Chúng có chiều dài chung 306 foot (93,3 m), mạn tàu rộng 36 foot 10 inch (11,2 m) và mớn nước 13 foot 4 inch (4,1 m),[1] trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.350 tấn Anh (1.372 t), và lên đến 1.745 tấn Anh (1.773 t) khi đầy tải, với một thủy thủ đoàn bao gồm 14 sĩ quan và 201 thủy thủ.[4] Con tàu được vận hành bởi hai turbine hơi nước hộp số Westinghouse; hơi nước được cung cấp bởi hai nồi hơi "D" Express, tạo ra công suất 12.000 mã lực càng (8.900 kW) và cho phép đạt được tốc độ tối đa 24 hải lý trên giờ (44 km/h; 28 mph). Nó có tầm hoạt động 6.000 hải lý (11.000 km; 6.900 mi) ở tốc độ đường trường 12 hải lý trên giờ (22 km/h; 14 mph).[4]

Dàn vũ khí chính bao gồm hai tháp pháo 5-inch/38 caliber đa dụng nòng đơn, được dẫn đường bởi hệ thống điều khiển hỏa lực Mark 51; vũ khí phòng không gồm hai khẩu đội Bofors 40 mm L/60 nòng đôi và mười khẩu Oerlikon 20 mm nòng đơn cũng được dẫn đường bởi hệ thống Mark 51.[3] Ngoài ba ống phóng ngư lôi 21 inch (533 mm), vũ khí chống ngầm bao gồm hai đường ray thả mìn sâu, tám máy phóng mìn sâu K-gun cùng một dàn súng cối chống ngầm Hedgehog.[1] Con tàu được trang bị sonar kiểu QC,[4] radar dò tìm mặt biển SL[5] và radar dò tìm không trung SA.[6]

Gentry được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Consolidated Steel CorporationOrange, Texas vào ngày 13 tháng 12, 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 15 tháng 2, 1944, được đỡ đầu bởi cô Jean Maxine Gentry, em gái của Thiếu úy Gentry, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 14 tháng 6, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân David A. Smith. [1][2][7]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Mặt trận Đại Tây Dương

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại khu vực Bermuda, Gentry làm nhiệm vụ như một tàu huấn luyện tại Norfolk, Virginia trước khi đi đến New York vào ngày 25 tháng 9, 1944. Trong giai đoạn từ ngày 6 tháng 10 đến ngày 23 tháng 12, nó đã thực hiện hai chuyến hộ tống vận tải khứ hồi từ New York vượt Đại Tây Dương để đi sang Marseilles, PhápOran, Algeria. Nó khởi hành từ New London, Connecticut vào ngày 9 tháng 1, 1945 để hộ tống cho các tàu ngầm Bullhead (SS-332)Lionfish (SS-298) đi đến Key West, Florida.[1]

Mặt trận Thái Bình Dương

[sửa | sửa mã nguồn]

Được điều động sang khu vực Mặt trận Thái Bình Dương, Gentry tiếp tục băng qua kênh đào Panama để đi sang vùng bờ Tây, rồi đi đến đảo Manus thuộc quần đảo Admiralty vào ngày 20 tháng 2. Trong bốn tháng tiếp theo, nó đảm nhiệm vai trò hộ tống vận tải giữa New GuineaPhilippines, trong phạm vi quần đảo Philippine, và giữa vịnh Manilavịnh Leyte với Palau và khu vực Tây quần đảo Caroline. Đến tháng 7, nó hộ tống một đoàn tàu vận tải đi đến Okinawa và phục vụ tuần tra canh phòng tại khu vực trước khi quay trở Leyte về vào cuối tháng 7.[1]

Sau khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột, Gentry tiếp tục vai trò hộ tống vận tải giữa vịnh Leyte với New Guinea, vịnh Manila và Okinawa. Nó cũng hoạt động tuần tra tìm kiếm và giải cứu tại vịnh Leyte cho đến ngày 27 tháng 11, khi nó rời vùng biển Philippines để quay trở về Hoa Kỳ. Về đến Los Angeles, California vào ngày 18 tháng 12, nó chuyển đến San Diego, California vào ngày 6 tháng 4, 1946.[1]

Gentry được cho xuất biên chế vào ngày 2 tháng 7, 1946[1][2][7] và được đưa về Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương, thoạt tiên neo đậu tại Stockton, California, và sau đó được chuyển đến Mare Island, California.[1] Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 15 tháng 1, 1972,[2][7] và con tàu bị bán cho hãng National Metal & Steel Corp. tại Terminal Island, California để tháo dỡ vào ngày 15 tháng 1, 1973.[2][7]

Phần thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]
Nguồn: Navsource Naval History[2]
Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương
Huân chương Chiến dịch Châu Âu-Châu Phi-Trung Đông Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II Huân chương Giải phóng Philippine
(Philippine)

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g h i Naval Historical Center. Gentry (DE-349). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2022.
  2. ^ a b c d e f Yarnall, Paul R. (27 tháng 11 năm 2018). “USS Gentry (DE-349)”. NavSource.org. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2022.
  3. ^ a b Friedman 1982, tr. 141, 149.
  4. ^ a b c Friedman 1982, tr. 421.
  5. ^ Friedman 1981, tr. 149.
  6. ^ Friedman 1981, tr. 146.
  7. ^ a b c d Helgason, Guðmundur. “USS Gentry (DE 349)”. uboat.net. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2022.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]


Chúng tôi bán
Bài viết liên quan